Cập nhật thông tin chi tiết về Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần mới nhất trên website Bachvietgroup.org. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thế đất “hậu sinh phát đế” phát vương nhiều đời cho con cháu họ Trần
✅ Phía trước gò ấy có 3 gò lớn là Tam thai, phía sau có 7 gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Dân gian vẫn từng nói rằng: trước khi làm quan anh phải biết được mộ nhà anh đặt ở đâu, tổ tiên anh tích đức như thế nào. Ngày nay cũng vậy, câu nói đó dù hiểu theo phương diện huyền bí hay thực tế thì nó vẫn luôn luôn đúng.Tổ tiên có công đức, tích tụ công đức……nuôi dạy con cháu có tốt thì mới có ngày hiển vinh.
Thái Đường Lăng (Hưng Hà – Thái Bình) là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại các lăng mộ Thọ Lăng, Chiêu Lăng, Dự Lăng, Quy Đức Lăng.
Vậy nên ở Việt Nam chúng ta, các dòng họ đều răn dạy con cháu với câu đối: “tổ tông công đức thiên niên thịnh – tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh”. Lịch sử nhà Trần là một minh chứng cho điều đó.Sự phát tích của nhà Trần trong lịch sử phong kiến kiến Việt Nam luôn luôn là một đề tài tốn rất nhiều giấy mực của các bậc trí giả. Cũng như các triều đại khác của lịch sử Việt Nam, khi phát tích đều mang những yếu tố liêu trai. Sử sách mà lịch sử ghi lại về nhà Trần cho đến nay vẫn còn nhiều điểm mang tính chất huyền bí, do ảnh hưởng bởi những truyền thuyết dân gian. Do vậy, sự phát tích và phát triển đến cực thịnh, rực rỡ của nha Tran vẫn là một đề tài hấp dẫn mà những nhà nghiên cứu đam mê bí ẩn về phong thủy đang đi tìm lời giải đáp.
Đền thờ các Vua Trần tại Hưng Hà – Thái Bình
Lịch sử phát triển rực rỡ của nhà Trần: Người đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển rực rỡ của nhà Trần chính là Trần Tự Khánh, người đã có công tập hợp lực lượng, đánh dẹp các xứ quân nổi loạn và hình thành lên thế lực cho họ Trần trong triều đình nhà Lý.Người trực tiếp gây dựng lên cơ nghiệp trăm năm rực sáng cho họ Trần và ảnh hưởng tới cục diện, sức mạnh của nhà nước Đại Việt khi đó lại chính là Thái sư Trần Thủ Độ. Ông là người đã ra sức ép buộc Huệ Tông bỏ ngôi lên làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Chiêu Thánh công chúa khi đó mới 7 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Để đoạt hẳn ngôi báu về tay họ Trần, Trần Thủ Độ tìm cách đưa con của anh thứ Trần Thừa là Trần Cảnh, mới 8 tuổi, vào hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Thượng hoàng Huệ Tông đi tu, truất làm Huệ Quang đại sư, Trần Cảnh lên ngôi tức Thái Tông hoàng đế của triều Trần. Năm 1226 nhà Trần được thành lập và trải qua 12 đời vua với 175 năm trị vì (tính từ đời vua Trần Thái Tông đến vua Trần Thiếu Đế)
Ngôi “mộ tổ” họ Trần được chôn cất đúng vào long mạch và kết phát mạnh mẽ nên con cháu
Giai Thoại Phong Thủy Kể Về Dòng Họ Trần Phát 12 Đời Đế Vương
Lịch sử Việt Nam khi nhắc đến hào khí Đông A ai ai máu củng phải sôi sục lên vì hào khí dân tộc, vì thời bấy giờ dòng máu con rồng cháu tiên có quá nhiều người giỏi, quá nhiều hào kiệt.
Triều đại nhà Trần ! Một triều đại rực rỡ nhất, hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ba lần đánh thắng quân Mông Nguyên mà cả thế giới đều ngã mũ xin hàng. Kinh tế đất nước giàu mạnh, thịnh vượng đáng để tự hào.
Đằng sau sự phát tích đế vương hùng mạnh đó là cả một câu chuyện ly kỳ.
Mộ tổ của nhà họ Trần được táng trên một đại huyệt thuộc lưu vực sông Phổ Đà (tức sông Luộc) và nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Đó là một ngôi đất quý phát đế vương 12 đời !
Truyền thuyết kể lại rằng vào thời điểm đó trên thôn Lưu Gia có hai dòng họ nổi tiếng nhất sinh sống ở đây là họ Lý và họ Tô, còn họ Trần mãi sau này mới đến định cư và kết giao được với họ Tô thông qua đám cưới giữa Trần Lý với người con gái họ Tô.
Giai thoại dân gian truyền tai nhau rằng: Trần Lý có một người bạn vốn là một thầy địa lý rất giỏi, được dân chúng gọi là thầy Phùng. Vốn là một người sành sỏi trong nghề, lại thường xuyên đi khắp nơi tìm đất đặt mộ, một lần thầy Phùng đến thôn Lưu Gia thăm Trần Lý thì biết ở thôn Lưu Gia này có ngôi huyệt quý.
Ngôi huyệt quý đó được mô tả như sau: “Tổ sơn bắt nguồn từ đoạn giao giữa ba ngọn núi chồng lên nhau, lấy Tam Đảo làm gốc rồi cùng với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị chụm lại.
Long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc -Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng (hiện chưa rõ địa điểm này ở đâu) mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.
Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường (xã Thái Đường, huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay) và kết lại ở gò Sao.
Phía trước gò ấy có 3 gò lớn là Tam thai, phía sau có 7 gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Nghe theo lời thầy Phùng, vào một ngày lập thu, Trần Lý dời mộ tổ từ Tức Mặc (Nam Định) về táng tại gò Sao, công việc hoàn tất đúng chính giờ Hợi (tức 22h đêm).
Xong xuôi, trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết. Chính vì được mộ tổ họ Trần được chôn cất vào thế đất “hậu sinh phát đế” nên sau đó con cháu nhà Trần cứ thế phát vương và thay nhau nắm giữ thiên hạ hoặc làm quan trong triều.
Họ Trần bắt đầu phát đế vương.
Lý Long Trát được nối ngôi vua nhà Lý hiệu là Lý Cao tông. Lý Cao tông chơi bời vô độ, không quan tâm chính sự, đất nước đói kém, cướp bóc như ong, các bè đảng nổi lên chiếm cứ các vùng tìm cách cướp ngôi vua.
Vua phải chạy loạn trốn lên vùng Quy Hóa (vùng núi tỉnh Phú Thọ ngày nay), còn thái tử Sảm con vua thì chạy về Hải ấp (nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Thái tử Sảm được Trần Lý cứu sống và giúp dành lại ngôi vua, dữ vững giang sơn đất nước. Thái tử Sảm thấy Trần Thị Dung, con gái Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ, phong cho Trần Lý tước Minh Tự, phong cho Tô Trung Tử, em vợ Trần Lý làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Cha con Trần Lý, Trần Thừa, Trần Tự Khánh đều hết lòng thờ vua nhà Lý. Thái tử Sảm nối ngôi cha, hiệu là Lý Huệ Tông.
Lý Huệ tông không có con trai. lại bị bệnh tâm thần nên truyền ngôi cho con gái là Lý Phật Kim, thường gọi là Lý Chiêu Thánh hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều đại nhà Trần bắt đầu phát đế vương từ đây, và càng ngày càng hùng mạnh.
Triều đại đế vương nhà Trần phát 12 đời. Đến đời thứ 12 là vua Trần Thiếu Đế thì suy tàn. Trần Thiếu Đế bị ông ngoại là Hồ Quý Ly ép nhường ngôi. Nhà Trần Kết thúc.
………………………………………………………………………………………………..
Hotline – Zalo – Viber: 0907.6555.08
Phong Thủy Qua Các Đời Vua Việt Nam – Bài 2: Đất Phát Vương Của Nhà Trần
“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn tăn).
Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).
Phát vương trên đất kết
Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
Những tòa tháp ở Yên Tử nơi vua Trần Nhân Tông khởi phát thiền phài Trúc Lâm
Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.
Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy Phùng”.
Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.
Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa.
Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.
Cây hoa đại 700 tuổi ở Yên Tử do vua Trần Nhân Tông cho trồng
Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.
Nguồn: Tạp chí Duyên dáng Việt Nam
Giai Thoại Về Huyệt Phát Đế Vương Của Nhà Tây Sơn
Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn và luôn tồn tại song song với câu sấm truyền lịch sử vào thuở ấy: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”…
Có một “Hoành Sơn” ở phương Nam
Thường mỗi khi nhắc hai tiếng “Hoành Sơn” ở phía Bắc (tỉnh Quảng Bình) người ta liên tưởng đến cơ nghiệp nhà Nguyễn. Song cũng có một “Hoành Sơn” khác nữa nằm sâu về phía Nam (tỉnh Bình Định) vốn là nơi huyệt kết phát vương của anh em nhà Tây Sơn.
Chuyện thứ nhất kể rằng, vào khoảng giữa thế kỷ 18, có một thầy địa lý từ Trung Quốc không biết cách nào đã lặn lội vào tận đất Bình Định để tìm long mạch và huyệt kết vùng núi Hoành Sơn. Thầy đã dùng hai cây trúc lén cắm ở hai nơi trên triền núi Hoành Sơn để dò huyệt địa, rồi bỏ đi mất một thời gian. Những gì thầy địa lý làm đều không qua được mắt của Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc theo dõi và thấy một trong hai cây trúc bị chết, tàn lụi, còn cây trúc kia vẫn sống tươi xanh. Ông nhổ cây trúc chết đem trồng vào chỗ cây trúc sống. Lại nhổ cây trúc sống đến trồng vào chỗ cây trúc đã chết. Chẳng bao lâu sau, thầy địa lý người Trung Hoa đến để xem kết quả thử địa ở Hoành Sơn thì thấy cả hai cây trúc đều khô chết nên thầy thất vọng thầm nghĩ đây không phải là đất phát vương nên bỏ đi biệt hẳn. Bấy giờ, Nguyễn Nhạc mới bốc mộ của cha mình là cụ Nguyễn Phi Phúc đem táng vào chỗ có cây trúc tươi mà chỉ Nguyễn Nhạc biết thôi.
Chuyện thứ hai cho rằng, thầy địa lý người Trung Hoa khi đến vùng Tây Sơn để dò tìm long mạch và chỗ huyệt kết đã ở tại nhà của Nguyễn Nhạc. Hằng ngày, thầy đi lùng kiếm khắp vùng, đem theo chiếc la bàn, tấm vải điều màu đỏ và một chiếc gậy đẽo từ gỗ của một cây đại thọ trăm năm. Hết chỗ này đến chỗ khác thầy vẫn không vừa ý, cuối cùng thầy địa lý để tâm đến hòn Hoành Sơn.
Nguyễn Nhạc dò biết nên âm thầm kín đáo theo sau thầy địa lý và phát hiện được nơi huyệt kết. Khi thầy địa lý về lại Trung Hoa để hốt cốt thân sinh của mình đem đến chỗ huyệt kết để chôn, bấy giờ Nguyễn Nhạc tìm cách đánh đổi: “Đến ngày đã chọn, thầy Tàu lén đem chiếc tráp (có hài cốt) cùng địa bàn đi lên Hoành Sơn, vừa đến chân núi thì một con cọp Tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm một tiếng, nhảy ra vồ”.
“Thầy Tàu hết hồn, quăng tráp và địa bàn (dùng dò hướng đất theo thuật phong thủy) mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong xuôi, thầy hớn hở trở về Trung Quốc, không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc và con cọp kia chỉ có lớp ngoài mà thôi”.
Đó là đoạn văn kể về sự tích phong thủy Hoành Sơn của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992), trong một tài liệu viết về di tích và truyền thuyết nhà Tây Sơn với kết luận rằng hai câu chuyện trên tuy có vài chi tiết không giống nhau, song đều đồng một điểm chính là cho biết mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành Sơn.
Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang, cao hơn 360 thước, có núi Ông Bình làm hậu tẩm, núi Ông Đốc với hình dạng “giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Núi Ông Đốc không cao và tuy giống hình cọp, song ngó bộ hiền lành như con cọp tu hành lâu đời.
Nơi triền phía Bắc hiện có một ngôi chùa thờ Phật. Đó là điềm “hổ cứ”. Còn “long bàn” là hai nhánh của con sông Côn, một từ phía Tây chảy xuống, một từ phía Tây Nam chảy ra, hợp nhau tại địa đầu thôn Phú Phong, trông như hai cánh tay ôm choàng lấy cuộc đất của Hoành Sơn vậy”.
Một vùng núi bút non nghiên…
Hoành Sơn là nơi được các thầy địa lý của Trung Hoa cũng như của Việt Nam công nhận là đại địa “vì có, nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ (trống) nào chung (chuông), ở bên tả bên hữu… trước mặt trên ba nổng gò, đã mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu về. Và xa xa có hổ phục long bàn”. Bằng những phân tích địa thế phong thủy, Quách Tấn chứng minh những điều nêu trên là xác thực, vì:
– Bút đó là hòn Trung Sơn ở bên Phú Lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây.
– Nghiên đó là hòn Hội Sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trí cùng hòn Trung Sơn ở phía Bắc.
Hòn Hội Sơn cao hơn 490m nhưng trông đầy vẻ uy nghiêm “trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên đó vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng (nhờ nước đầy đủ).
Vì núi có vũng nước nên đám bình dân gọi núi là hòn Vũng (thay vì hòn Dũng). Còn đám hàn mặc (nho sinh) thì coi vũng nước là nghiên mực của trời nên đặt cho núi một tên nữa là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên vậy, hòn Nghiên và hòn Bút nằm bên hữu bên tả hòn Hoành Sơn trông cân đối”, phù hợp với câu ca:
Một vùng núi Bút non Nghiên Trời giao ấn kiếm cho miền Tây Sơn.
Cuộc đất tốt như vậy kết hợp lời sấm truyền do thầy dạy học của ba anh em nhà Tây Sơn là cụ giáo Hiến thông báo, rằng: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”, đã tạo sức mạnh tâm linh thúc giục Tây Sơn tam kiệt khởi binh. Tây khởi nghĩa tức là dựng cờ nổi dậy ở vùng núi hướng Tây – vùng Tây Sơn. Bắc thu công là thành công lớn ở hướng Bắc, lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân (Huế bây giờ) năm 1788 và tiến ra Bắc đánh thắng quân Thanh xâm lược năm 1789…
Trong bài này chúng tôi chọn trích dẫn phong thủy nhà Tây Sơn chủ yếu theo tài liệu của Quách Tấn là vì trước hết gia đình ông đã trải qua chín đời ở ấp Tây Sơn hạ, ông viết: “Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường Sơn (…) vì núi mệnh danh là Tây Sơn nên các vùng sơn cước bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn.
Trong khoảng này, dáng núi lại hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào thì giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay dựa vào núi, mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia Long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc, song thân của Vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai quật. Nhưng khi đào lên hài cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đang cháy”.
Như vậy, đến nay dấu tích về mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn còn mờ mịt. Những ngọn đèn dầu phụng đã bị nhà Nguyễn (Gia Long) thổi tắt, nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn vẫn cháy đỏ trong lịch sử Việt Nam.
Nếu tính từ lúc dấy nghiệp vào năm Mậu Tuất 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng đế hiệu (niên hiệu Thái Đức), gọi thành Đồ Bàn là Hoàng đế thành, đến lúc suy vong vào năm Nhâm Tuất 1802, thì nhà Tây Sơn tồn tại 24 năm.
Nếu tính từ năm Vua Quang Trung lên ngôi thì chỉ kéo dài có 14 năm (1788-1802). Dẫu ngắn ngủi nhưng nhà Tây Sơn đã để lại một dấu ấn sâu đậm qua chiến công của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đánh thắng hai mươi vạn quân Thanh xâm lược vang dội đến nay – ứng đúng câu sấm truyền Tây khởi nghĩa – Bắc thu công…
Theo chúng tôi
Bạn đang xem bài viết Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần trên website Bachvietgroup.org. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!