Top 14 # Phong Thủy Tử Vi Tướng Số Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Bachvietgroup.org

*Phong Thuỷ, *Tử Vi, *Tướng Số Môn Nào Đúng?.

* Phong thuỷ, *Tử vi, *Tướng số môn nào đúng?.

Phong thuỹ, Tử vi, Tướng số môn nào đúng?. Sưu tầm vài ý kiến sau đây hy vọng sẽ trả lời phần nào câu hỏi trên.

Nếu ” Ông thầy bói nào đó ” mà biết được mọi sự cát hung thì ” Tại sao Ông ấy lại phải làm thầy bói ” để kiếm cơm ” mà là Ông ấy phải là mà người thành công trên mọi phương diện chứ đâu phải kêu cơm đâu. Mấy ông thầy bói chỉ đoán dựa theo ý muốn của khách hàng mà thôi. Hãy tự tin nơi bản thân mình hơn là nghe theo theo những lời không có thực của thầy bói nói láo ăn tiền.

Phong Thuỷ hay Tướng Số là hai môn , có thể gọi nôm na là đánh vào lòng ( Tham ) của con người. Vì trong chúng ta mấy ai không muốn mình giàu mình sang mình quí , và con cháu hiển vinh. Khi một ai đó muốn nhờ coi , xem cho mình. Thì đương nhiên là có vấn đề , những thầy xem coi phàm đoán vào tâm lý của con người mà đoán cho người. Thông thường người đi coi hoặc xem , đại đa số là muốn người coi ( Phải ) nói tốt về mình. Còn như nếu ông thầy nào lỡ dại nói không tốt , hoặc nói xấu , thì hình như chẳng có ai hài lòng về người thầy xem , hay là mình muốn xem. Thí dụ : Như một cô gái bị tình phụ , lại xem một ông thầy nào đó , ông thầy đó biết là cuộc tình ( Sẽ ) không bao giờ thành tựu , mà ông thầy đó nói như trong quẻ , thì là sẽ mất lòng khách. Vì thế ông ta phải nói trăng nói cuoi cho vừa lòng người xem , còn nói đúng theo sự thật , thì cô gái chẳng vừa lòng. Hiên nay có rất nhiều người sống bằng nghề Bói Toán , có người không biết gì về Phong Thuỷ hoặc Tử Vi mà họ vẫn sống đầy đủ tiện nghi , vẫn có hàng tá người mang Hoa Đăng Trà Quả lại cúng hàng ngày ( Tuần ). Bởi vì trời sinh họ có miệng lưỡi rất và biết lấy lòng khách. Chẳng có ai dại gì làm cho người ta giàu có , còn mình lại nghèo xơ nghèo xác. Chẳng có ai dại gì làm cho tông họ người ta phát Tướng phát Vương còn tông họ mình lại là nha đinh phụ dịch.

Phong Thuỷ và Tử Vi đương nhiên là có , nhưng có người học được thì có chỉ trên đầu ngón tay , còn Thuật Sĩ thì có hàng muôn hàng vạn. Cho nên chúng ta hiếm hoi lắm mới gặp được người tốt chỉ bảo tận tường nhưng phải còn tuỳ ( Phước chủ may thầy ). Còn vấn đề các nhà Phong Thuỷ Tử Vi tại sao biết trước mà lại không làm hoặc tránh. Mà để đi làm cho người. Thí dụ :

Khỗng Minh Gia Cát Lượng , biết trước cũng có làm được gì đâu , chẳng hạn như đốt cha con Tư Mã Ý cho chết , nhưng ông trời lại mưa mà cứu họ nhà Tư Mã. Như Lưu Bá Ôn ( Lưu Cơ ) biết phò cho Chu Nguyên Chương thành nghiệp đế , nhưng cũng có thoát khỏi bị chết trong nghiệp diệt tộc hay không ? Đấy là Nghiệp Quả vướng vào đành chịu. Vì Thiên Cơ Bất khả lậu, mình tiết lộ thì mình phải gánh chịu thế cho người.

******************************************************************************************************

Các phương pháp nhận dạng cá nhân qua dấu vết lỗ tai, dấu vân tay, hình dạng của mũi…là một khoa học dựa trên nghiên cứu các bộ phận của con người, thuật xem tướng cũng vậy được đúc kết từ kinh nghiệm quan sát hàng ngàn năm của tiền nhân. Tôi đam mê bộ môn tướng pháp từ lâu. Việc quan sát và nhận định về một con người với tôi thực sự là điều lý thú. Qua kinh nghiệm nhiều năm, những nhận xét bắt đầu đúc kết lại những nhận định riêng như sau:

*Nhận dạng tồng quát: Nghiên cứu các mẫu biểu hiện trên khuôn mặt khác nhau như tức giận, vui mừng… qua thực tế cũng như phim ảnh để xây dựng các kỹ năng đọc trên khuôn mặt của con người. Sau đó để ý dến hình dáng con người ra sao, đi đứng thế nào, hình dạng có gì đặc biệt, điệu bộ cử chỉ như thế nào do toàn thân toát ra vẻ quý phái, nghèo hèn, gian xảo,ngay thẳng, ngu đần, ngang bướng, háo sắc….tôi xếp loại người hung ác, hiền hậu, phú quý, bần tiện… mà tôi đã biết từ đó như là nhiều mẫu người (Liên hệ nhiều người với nhau xem có điểm chung như mũi chim ưng cộng thêm với cặp mắt liếc xéo ánh mắt đảo điên có bao giờ là người hiền lành). Do nhận thức bằng cảm tính của tôi dựa vào kinh nghiệm mà tôi thu thập các mẫu người sau khi suy nghĩ và so sánh là tạm đủ để mà phán đoán ít khi bị lầm lẫn.

*Người ta thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn “. Chúng ta phải thừa nhận rằng vị trí quan sát thần là cặp mắt con người, đôi mắt có thần thì sáng quắc linh động với một sức mạnh vô biên như soi vào tâm hồn người đối diện còn đôi mắt không có thần nhìn vào có cảm giác như là buồn ngủ, mắt không mở to được như không có sức sống… Do vậy ta có thể biết ánh mắt mạnh hay yếu, dữ hay hiền, thông minh, ngu đần…

*Nghe âm thanh biết giọng đàn ông, đàn bà, trẻ con, bà già, ông già. Đàn ông phài có giọng đàn ông và đàn bà phải là giọng đàn bà. Đàn ông có giọng đàn bà phần lớn đều khó thành công sự nghiệp. Đàn bà mà có giọng đàn ông thường khắc chồng, khắc con. Giọng đàn ông phải mạnh mẽ, trầm hùng trong trẻo có âm vang xa và ấm. Giọng đàn bà phải trong và ấm, ôn hoà, nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng.

*Quan sát khí sắc có thể biết được sức khỏe của người đó thế nào, từ đó có thể nhìn thấy thọ yểu của người đó ra sao. Nếu bạn có tâm hồn trong sáng và qua kinh nghiệm quan sát mẫu người sẽ cho biết họ là hạng người xấu, người tốt…

*******************************************

Phong Thủy là một môn học chuyên nghiên cứu về những cuộc đất,những thế đất có sinh khí để xây cất nhà cửa,hoặc an táng mồ mả… Tất cả các môn học của Đông Phương luôn luôn lấy Âm Dương làm chính để suy luận,lý giải sự việc,ngay trong chữ Phong Thuỷ cũng vậy. Phong là Gió,là vẻ bề ngoài,là hướng Gió di chuyển trong không khí,ở phía trên là Trời,thuộc về Dương. Thủy là nước,là chất mềm chảy len lỏi trong lòng đất thuộc về Âm,còn gọi là Long mạch,nhưung cuộc đất nào có cả hai khí Âm Dương hoà hợp là cuộc đất tốt,người nghiên cứu phải tìm tòi học hỏi thật nhiều và phải có kinh nghiệm thực tập lâu dài mới biết được nơi nào có Long Mạch và Sanh Khí tốt mà cụ Tả Ao gọi là “Tầm Long Điểm Huyệt”.Nh ững cuộc đất phát Vương,Tướng,Phú Quí không phải là dễ tìm mà người thọ hưởng phải là kẻ tích luỹ phước đức thật sâu dầy mới cơ hội gặp được.Có được cuộc đất tốt rồi phải biết về Bát Trạch nữa mới là đầy đủ,hoàn tất.Môn Bát Trạch cũng phải dầy công nghiên cứu mới rành rẽ được,phải biết xem La Bàn để phân cung điểm hướng.Môn Bát Trạch tức là dùng Bát Quái, Cửu Cung trong Dịch Số mà xây cất nhà cửa cho đúng phương vị,thuận lý Âm Dương ngũ hành,nếu làm nghịch lý,sai nguyên tắc sẽ bị suy bại,bệnh tật,tai nạn…

Người nghiên cứu Phong Thuỷ bắt buộc phải học hỏi cho thật nhuần nhuyễn thế nào là cách vận hành của Khí (Gió;Dương khí) và Long Mạch (Thuỷ;Địa khí hay Âm khí),nhìn một cuộc đất phải biết cuộc đất đó nên hay hư là nhờ vào sự vận chuyển thuận nghịch của hai thể “Phong,Thuỷ” nầy theo nguyên tắc:Nhất Bạch,Nhị Hắc,Tam Bích,Tứ Lục,Ngũ Hoàng,Lục Bạch,Thất Xích,Bát Trạch,và Cửu Tử áp dụng với bảng Ma Trận Bát Quái Cửu Cung của Hậu Thiên Dịch Số: nhứt Khảm,nhì Khôn,tam Chấn,tứ Tốn,ngũ Trung,lục Càn,thất Đoài ,bát Cấn,cửu Ly.Nó rất là phức tạp vì phải biết năm Âm Dương dể vận hành thuận nghịch…

Một người bạn khác bàn về Phong Thủy :

Thuốc đắng giã tật , lời thật mích lòng. Đó là câu nói của người xưa , không hẳn là sai khi chúng ta nghe thấy. Nhưng phàm con người thông thường thích nghe những lời nịnh hót mình. Cho dù chúng có giấu cả thế nhân , nhưng chúng ta làm sao giấu được lòng mình. Kẻ chỉ trích ta đúng.. là bạn ta , kẻ tâng bốc ta không đúng.. kẻ đó là kẻ thù của ta. Nhưng những câu nói lưu loát trôi chảy lúc nào nó cũng tạo cho ta êm tai & mát mặt.

Phong Thủy không hẳn sẽ đưa chúng ta đến đài vinh quang , và nó cũng chẳng giúp gì ta khi mà chúng ta có không tự lo cho bản thân , từ cái ăn đến cái mặc. Từ chữ hiếu đến chữ nhân. Con người trong chúng ta vác cái bao tham quá to lớn , vượt ra ngoài khả năng và sức lực của mình . Ngoài miệng thì lúc nào cũng nhân nghĩa đầy mình , nhưng trong lòng lại điêu ngoa giả trá. Miệng ngọt đến bùi tai , mà lòng thì ngay như dòng sông Cửu. Những câu mỹ miều thường đặt ra để tự bào chữa cho mình là : – Vì Hiếu , muốn báo hiếu cho cha mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng , tìm những cuộc đất quí vinh hiển , có ẩn tàng Long Mạch. Nhưng nếu chúng ta quay lại 180 độ thì sao? . Một con người đã lìa bỏ cuộc đời thì há còn đâu chuyện giàu nghèo sang cả , chỉ có những người còn tại thế mới hoài vọng mà thôi. Đem mớ xương cùn của cha mẹ để đầu tư , kiếm món lợi to tướng. Trong khi lúc cha mẹ còn sống , chẳng giúp đở gì cha mẹ , ăn không cho ăn , mặc không cho mặc , còn lại bắt cha mẹ nấu cơm giặt đồ , lau nhà rửa chén. Mà khi cha mẹ chết rồi lại muốn báo hiếu. Mà sự báo hiếu đó ai báo cho ai ???

Phong Thủy , đã có từ mấy ngàn năm. Trong thời phong kiến những vua chúa bên Tàu hoặc bên VN. Không hẳn là không có Tầm Long Tróc Mạch xây dựng cung đài những nơi có cuộc đất quí. Để bảo tồn cho tộc họ mình vinh thân phì da mãi mãi. Được ngồi trên ăn trước đè đầu đè cổ vạn dân. Nhưng có triều đình nào tồn tại mãi mãi hay không , hay là con người theo dòng thời gian để đi vào quá khứ cùng chung số phận chịu sự thịnh suy của nhân loại. Ai giàu ba họ ai khó ba đời.

Những Phong Thủy Gia đại tài như : – Dương Duân Tùng , Quách Phác hẳn trong ta đã nghe , hẳn chúng ta đã đọc. Hay bây giờ , những thầy xem chỗ ở ( dương cơ ) tìm đất đặt mộ ( âm phần ). Nhan nhản khắp cả vòng quanh quả địa cầu nầy đâu đâu cũng có . Mỗi một lần xem , mỗi lần sửa chữa , không hẳn là không tốn kém cho gia chủ , còn thành bại là do phước chủ may thầy. Lúc nào các thầy cũng ra rả nói thi ân bố đức giúp đở nhân loại , phù trợ chúng sinh etc. Có phải vậy không. Nhưng lại thi ân với những hạng người tiền muôn bạc tỷ , có mấy ai thi ân bố đức , đặt mộ , sửa nhà , cho kẻ cùng đinh nghèo khó. Ở đời đâu đâu cũng gian cũng dối , cũng lừa lọc cũng điêu ngoa. Anh muốn bán được giá cao của thành phẩm mình thì phải nói là phẩm chất của mình hoàn mỹ , đi mòn gót giầy , không một ai làm sản phẩm bằng mình được. Thì thuật phong thủy cũng vậy . Khi con người vay mượn học thuyết của thái cực , đồng thời dựa vào học thuyết của nho gia , vốn được con người sùng bái đưa chữ hiếu lên cao. Việc người chết đi là một việc lớn , con muốn báo hiếu phải mướn thầy tìm cho được huyện đạo cao sang quyền quí ( Táng Giả , Nhân Chi Đại Sự ) và chỉ có chôn cất nơi đất có sinh khí người chết mới được an nhàn , và người sống được thừa huởng vinh quang phú quí. Còn các thầy thì lúc nào cũng ra dáng rất quan tâm đến người khác , và lúc nào cũng giữ vẻ tận tụy , với lòng từ thiện muốn cứu lấy hàng vạn sinh linh không bằng . Họ đi tìm đất cho người ,họ sẽ lên non , họ sẽ xuống biển để tìm cho bằng được , trong sự tìm tòi đó , họ sẽ dùng miệng lưỡi nói năng linh hoạt , đem những ngày phát phúc nói xa nói gần , đem những gì phải kiêng cữ , càng nói càng lắm. Nếu như.. không may nhà chủ nào đó không phát phúc hoặc chẳng gặp tai nạn , thì họ tìm cách nói cho qua , cũng toàn là nhờ ba tấc lưỡi. Và họ cứ nhai đi nhai lại cho đến khi nào người nghe phải tâm phục khẩu phục. Và thế thì cứ dốc ngược hầu bao mà để ( cúng ) cho họ. Lại còn những sách vở phong thủy gọi là tổ tiên truyền lại chính tông về môn nầy , để đi cứu nhân độ thế. Đầu đội khăn nhật nguyệt, miệng học thuyết Tô Tần, tay xách cần câu, với những ngạnh sâu và lưỡi dài.

Lý luận của thuật Phong Thủy và thực tiễn vô cùng. Hành nghề thì có ba năm chọn đất mười năm điểm huyệt. Mười ba năm sau mới điểm huyệt được, qua đó, có thể thấy đây không phải là bản lãnh tầm thường. Những thầy phong thủy, lấy phong thủy kiếm cơm ăn cả đời, nếu trong họ tự hỏi lương tâm một cách chân thật, thì chắn bản thân họ cũng chẳng biết phong thủy là cái quái gì. Các kiểu thuật ngữ, các loại kiêng cử, rối rắm tối mù khó mà giải quyết, quả thật cắt không đứt cải lý càng loạn . Không có hệ thống lý luận, không có tư duy nghiêm chỉnh ( phần lớn là nói nhăng như cuội ) , và cũng chẳng có thuật ngữ tiêu chuẩn , chẳng có kết cấu quy tắc bình thường , và không có khí cụ quy chuẩn thống nhất, không có nghi thức cố định , chẳng có kinh điển nghiêm chỉnh, chẳng có đoàn thể học thuật, chẳng có nhân vật quyền uy, có.. có chăng nữa là nhưng kẻ giang hồ lừa đảo, mỗi người một phái, tùy ý bốc trời, đấm đá lẫn nhau, tự mình mâu thuẫn, tự treo bảng hiệu, ra sức kiếm khách hành nghề kiếm sống.

Thì thử họi thuật phong thủy cứ để cho họ tự tung tự tác , thì làm sao chẳng loạn?. Chúng ta hãy nhìn từ khi có thuật phong thủy cho đến nay, có cuốn sách nào dùng ngôn ngữ thông dụng giới thiệu thuật phong thủy một cách toàn diện. Và chúng ta cứ tìm đọc một số sách cổ không có tiêu điểm đã kể, mà lại nhìn lại những kết cấu lung tung, đoạn trên chẳng ăn nhập gì dưới đoạn dưới , chữ sai chữ hỏng vô số, từ này qua từ khác toàn là thuật ngữ, chẳng ai đọc thấy nghe thấy, chẳng có gì hợp với tư duy logic, nhìn văn thì cố nặn ra huyền hư, rõ ràng càng đọc càng không hiểu được, làm cho ai đó tìm đọc càng bù đầu rối ruột, và càng đọc thì cang như tăm tối u mê. Có những số đoạn có người cứ viết , viết bừa, chẳng những khiến chúng ta hiện nay cố đọc , lại không làm sao hiểu nổi , và trong tương lai cũng khó mà đọc để hiểu. Kỳ thực cũng bất tất chúng ta phải cố mà tìm hiểu, vì dại gì tự hãm mình vào vũng lầy khó rút chân ra khỏi.. để làm gì.

Tử Vi : Khoa Học Hay Mê Tín

Tử vi là một dạng thức khoa học hay chỉ là một hình thức bói toán mang yếu tố mê tín và lừa đảo? Câu trả lời đó còn đang gây tranh cãi. Tuy nhiên, có thể nói, với tính chất khoa học thần bí của mình, Tử vi là một đối tượng nghiên cứu khá thú vị.

Trong những kiểu bói toán, Tử vi thường được coi là một trong những kiểu bói toán có tính chính xác cao và được nhiều người tín nhiệm. Trước khi khoa Tử vi ra đời, Trung Quốc đã có nhiều hình thức bói toán khác như “64 quẻ bói” do Chu Vãn Vương dựa trên Hà Đồ tạo thành. Sau đó, nền triết học Trung Hoa đã đi qua nhiều luận thuyết, như thuyết âm Dương Ngũ Hành dựa trên sự tương sinh tương khắc của 5 yếu tổ cơ bản nhằm giải thích đời sống và tuỳ từng cặp yếu tố kết hợp với nhau, nó sẽ ra những kết quả khác nhau với độ biến thiên rất phức tạp. Đây là học thuyết có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Tử vi sau đó .

Về phạm trù số mệnh được đề cập đến ở vị trí trung tâm của Tử vi, thực ra trước đó đã có nhiều nhà triết học có những cái nhìn khác nhau về nó. Khổng Phu Tử nói: “Tận nhân lực, tri thiên mệnh” nghĩa là hay cố gắng làm hết sức mình rồi thành bại thế nào mới biết được mệnh trời. Triết gia Trang Tử thì cho rằng, con người thành bại, nghèo hèn hay giàu sang đều do định mệnh, ngay cả vận nước cũng do thiên mệnh chi phối không thể thay đổi. Còn học giả Tuân Tử thì phủ nhận sự tồn tại của số mệnh và cho rằng, tất cả hoạ phúc của con người đều do chính hành động của họ tạo thành. Đến thời Tống, nền văn minh Trung Hoa đã có bước phát triển mạnh mẽ trong việc nghiên cứu về nhân học. Nhiều triết gia đã chuyên tâm nghiên cứu về con người nhằm tìm ra những nguyên tắc về cuộc sống. Tử vi tuy ra đời chậm nhưng nó đã tổng hoà được những tinh hoa của bói dịch, nhân tướng học, thiên văn học của Trung Quốc cổ đại. Tử vi đã quy nạp lại cho mình một hệ thống thuật ngữ học thuật riêng. Một số quan điểm trong Tử vi tuy không được chứng minh nhưng vẫn áp dụng trong đời sống hàng ngày như áp dụng thuyết âm Dương Ngũ Hành vào y học. Với những nét đặc trưng độc đáo của mình, nhiều nhà khoa học ngày nay xem Tử vi như là một bước hển về nhân học Trưng Hoa thời Trưng đại.

Đối tượng nghiên cứu của Tử vi chính là con người và số mệnh con người. Con người trong Tử vi là con người gắn liền với gia đình và những mối quan hệ xã hội. Có thể coi Tử vi là một dạng thức khoa học kết hợp triết học một cách khá sơ khai và chất phác. Loại hình nghiên cứu của nó dựa trên tính trực quan và mang nhiều yếu tố triết học sơ kỳ. Tử vi dừng nhiều phương pháp nghiên cứu kết hợp đó là phân tích, tổng hợp và động. Trong đó chia thành đại phân tích và vi phân tích. Những triết lý bói toán cũng được hệ thống hoá dựa trên nền tảng của triết lý âm Dương Ngũ Hành. Tử vi vận động theo các vì sao ở 10 Can, 12 Chi dịch chuyển và biển đổi theo thuyết Bát Quái, tương tác với nhau theo thuyết âm Dương Ngũ Hành.

Vậy Tử vi là gì và ai là người đã có công hình thành và phát triển nên dạng thức khoa học thô sơ này?

Di Hi -Trần Đoàn lão Tổ Ông tổ của Tử vi là một đạo sĩ tu trên núi Hoa Sơn có tên hiệu là Di Hi và tên thật là Trần Đoàn, sống vào thời nhà Tống. Dựa vào Kinh dịch cùng những khai triển về thuyết âm Dương Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư, một triết gia thời Hán, ông đã lập ra Tử vi với mục đích tìm hiểu con người và số phận con người, dựa trên hệ thống quy luật biến hóa của thuyết về Vũ trụ thời đó. Bằng cách tích hợp những biến số của đời sống dựa trên ngày sinh tháng đẻ Trần Đoàn đã tìm ra nguyên tắc viết nên “lá số Tử vi” rất gọn gàng với 12 Cung và hơn 100 vì sao nhằm tiên đoán số phận của con người. Lá số Tử vi gồm 10 Chính tinh và nhiều Phụ tinh an định trên 12 Cung nằm trên một Thiên Bàn. Những vì sao và cung mệnh có mối quan hệ tương tác rất phức tạp, có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến bản mệnh. Trong những ngôi sao bản mệnh, sao Tử vi là ngôi sao quan trọng nhất (Tử vi là màu tím huyền diệu) . Tử vi là tên ngôi sao Chủ tinh của con trưởng Vua Văn Vương đời Chu: Trung cung Tử vi đại đế cai quản hai cung Nam Tào, Bắc Đẩu, nắm giữ chuyện sinh tử của thiên hạ trong tay. Các vua chúa ngày xưa cũng coi Tử vi chính là sao tướng tinh của mình và cho rằng, cung sao Tử vi trên bầu trời tương ứng vào chính Hoàng cung.

Tương truyền Trần Đoàn là một đạo sĩ kỳ dị. Ông ngủ suốt ngày và giấc ngủ đầu đời của ông dài tới 4ọ năm. Theo truyền thuyết thì sau này, Trần Đoàn lão tổ có gặp và dâng cho Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn cuốn Tử vi chính nghĩa kinh để nhà vua dựa vào đó mà biết cách lựa chọn người tái giúp quốc thái dân an. Sau này, nhà Tống dựa trên cuốn đó mà soạn thành Triệu thị minh thuyết Tử vi (Sách của họ Triệu giảng giải minh bạch về thuyết Tử vi) Ngoài ra, cũng có những học giả nổi tiếng khác viết về Tử vi như Tử vi âm dương chính nghĩa của Lã Ngọc Thiềm và Tử vi đẩu số toàn thư do học giả La Hồng Tiên biên soạn. Đến đời Minh, có thêm tử vi thiển thuyết của Lưu Bá Ôn và Lịch số Tử vi Toàn thư của Hứa Quang Hy. Dưới triều nhà Thanh, tất cả những nghiên cứu nhỏ lẻ về Tử vi đã được .tập hợp vào thành Tử vi đại toàn.

Trong một lá số Tử vi, nhiều nhất có 118 sao. Mỗi ngôi sao có một ý nghĩa. Sao này khi tương tác với sao khác lại có ý nghĩa khác Cho dù sự chính xác của Tử vi còn phải bàn cãi, nhưng việc “mã hoá” và “sơ đồ hoá” số mệnh của con người vào một lá số Tử vi đã cho thấy tham vọng lớn lao của Tử vi. Ngày nay, dưới con mắt của các nhà khoa học, Tử vi được coi là một loại hình khoa học huyền bí kết hợp với nhân học và sự phân tích độc đáo trong việc tiên đoán số mệnh con người. Thực tế, để xem chuẩn một lá số Tử vi là một điều không thể vì nó là một hàm số có quá nhiều biến số tương tác lẫn nhau. Nếu coi các nguyên tắc tương tác giữa các sao là một hàm số, thì lá số Tử vi của một người là một hàm số có tới hơn 100 biển số. Đây là một hàm số quá phức tạp và không có lời giải thấu triệt. Cũng nhiều người cho rằng, thực ra, Di Hi Lão tổ Trần Đoàn không phải là người sáng tạo ra Tử vi mà ông chỉ là người hệ thống hoá lại Tử vi mà thôi. Tử vi cũng không nên được coi là một khoa học độc lập mà nên coi nó là sự kết hợp của nhiều nguyên lý khoa học khác trong triết học Trung Hoa.

Khoa học hay mê tín

Tử vi vừa mang tính khoa học thống kê, vừa mang tính bói toán và có phần dị đoan. Nếu xét theo những điều kiện cần thì Tử vi có thể được coi là một khoa học theo một mặt nào đó. Tử vi có hệ thống lý luận riêng với những thuật toán riêng và cách tiếp cận nghiên cứu nhân học độc đáo. Ngoài ra, Tử vi kgông có tính lập luận và lôgích học rõ ràng, từ đó đưa ra được những trải nghiệm và chứng minh từ thực tế đời sống các cung trên lá số Tử vi là những hàm số căn bản. Trong các cung có Chính tinh và Phụ tinh. Những ngôi sao này tương tác với nhau theo quy luật âm Dương Ngũ Hành khiến một lá số Tử vi trở thành một ” đa hàm số” với nhiều biến đổi rất phức tạp. Điều đó cũng phần nào thể hiện Bản mệnh của con người cũng thật phức tạp.

Tử vi là một phương pháp, một công thức, một đồ biểu nhưng nó không đo lường được về lượng cũng như về chất một cách chính xác. Nó là một hệ thống tương quan giữa các yếu tố phức tạp, và khi đưa ra không thể lý giải một cách máy móc hay bằng một ước đoán cụ thể nào. Tử vi khiến người ta nghĩ về sự liên hệ giữa các yếu tố trong cuộc đời và kết luận về một lá số Tử vi đòi hỏi phải dựa trên sự tổng hợp các nhận định cục bộ. Con người và bản mệnh trong Tử vi là một con người toàn diện, bao hàm cả thể chất lẫn tinh thần cả di truyền lẫn bản tính cá nhân, cả môi trường gia đình và xã hội, cả công danh lẫn tài lộc. Con người đó chính là “sự tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”. Tử vi không tách rời các phương diện và xem xét con người ở một thể giới quan tổng hợp có tương tác với môi trường xã hội chứ không phải biệt lập ở một phương diện cụ thể.

Tuy nhiên, ông có những thiếu hụt trong Tử vi khiến nhiều người cho rằng, Tử vi không phải là một khoa học, nhưng vẫn cần phải nhìn nhận giá trị của nó. Tử vi chỉ là một quá trình xét đoán dựa trên những hàm số và biến số được thể hiện bằng nhũng ngôi sao trên lá số Tử vi. Chính vì vậy, tính chính xác của Tử vi không được bảo đảm. Cách tính giờ của tử vi cũng có nhiều thay đổi khiến người ta càng nghi ngờ vào tính xác thực của Tử vi. Từ xưa, người ta tính giờ dựa vào Mặt trời. Nhưng từ khi chịu ảnh hưởng của phương Tây, thời gian trong ngày được chia làm 24 múi. Quy ước này khác với quy ước của Tử vi chia một ngày làm 12 múi. Tử vi cũng có hạn chế là coi người tu hành không nằm trong vòng cung mệnh nên không xem được. Nó cũng không giải thích được sự khác nhau giữa số mệnh của những người sinh cùng thời điểm. Tai hại hơn nữa, từ việc sùng bái Tử vi dẫn đến việc một số gia đình cho mổ lấy thai nhi vào giờ tốt để có lá số Tử vi tốt, đây là một việc làm mù quáng, đầy mê tín và thiếu khoa học.

Lời kết

Chính vì tính phức tạp trong Tử vi nên cón lúc cách nhìn trái ngược nhau về hiện tượng lý thú này. Nhiều người quan niệm Tử vi là một khoa học có sức mạnh siêu nhiên, giải thích được tất cả về số mệnh và bí ẩn của đời người. Tử vi có thể tiên liệu được mọi biến cố, kết luận chính xác về cốt cách, nhân phẩm, tâm tính, gia đình, bè bạn, quan trường, tài sản… của con người. Chỉ cần nhìn vào lá số Tử vi là có thể biết mọi việc trong quá khứ và tương lai. Thiết nghĩ đây là một quan niệm sai lầm, đề cao quá đáng vai trò của Tử vi, cho nó một giá trị lớn quá tầm vóc vốn có của nó.

Cũng có nhiều người cho rằng, Tử vi là một loại hình mê tín dị đoan, chỉ dựa vào vài điều xằng bậy để lừa đảo bằng những tà thuật với động cơ trục lợi. Những suy đoán dựa trên lập luận và lôgíc của Tử vi đều là vô giá trị. Thiết nghĩ đây cũng là một nhận định vội vàng.

Thực chất, đối tượng nghiên cứu của Tử vi chính là con người. Tử vi cũng có nhiều ưu điểm nhưng cũng đầy khiếm khuyết. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sự suy đoán kết hợp với những kinh nghiệm quan sát từ thực tế đời sống khiến Tử vi có một sức hấp dẫn thú vị.

Thiết nghĩ, Tử vi là một ngành nghiên cứu nhân học khá lý thú. Nó dựa trên các sao trong Tử vi để mệnh danh một yếu tố trong con người và sự trong tác qua lại giữa chúng, nhằm đưa ra những nhận định dựa trên những suy đoán đã được thống kê về số phận và tính cách con người.

Nếu ta biết gạn đục khơi trong, nhìn nhận những giá trị khoa học và triết học cơ bản cũng như loại trừ những yếu tố mê tín dị đoan của Tử vi thì đây chính là một trong nhưng vấn đề khoa học rất đáng được quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Rất mong các bạn góp ý thêm về Phong Thuỷ, Tử Vi , Tướng số……

Xem Ngày Tốt Xấu, Tử Vi, Tướng Số, Phong Thuỷ, Xem Bói

Thứ 6: 5-2-2021 – Âm lịch là ngày 24-12 – Giáp Thân 甲申 [Hành: Thủy], tháng Kỷ Sửu 己丑 [Hành: Hỏa].Ngày: Giờ đầu ngày: GTí – Đầu giờ Sửu thực: 00 giờ 46 phút 17 giây. Hoàng đạo [Tư Mệnh]. Tuổi xung khắc ngày: Mậu Dần, Bính Dần, Canh Ngọ, Canh Tí. Tuổi xung khắc tháng: Đinh Mùi, Ất Mùi. Sao: Quỷ – Trực: Phá – Lục Diệu : Tốc HỉGiờ hoàng đạo: Tý (23h-01h); Sửu (01h-03h); Thìn (07h-09h); Tỵ (9h-11h); Mùi (13h-15h); Tuất (19h-21h).

Trực : Phá

Việc nên làm: Bốc thuốc, uống thuốc, chữa bệnhViệc kiêng kỵ: Đóng mới nội thất, cho vay, động thổ, san nền đắp nền, Hộ hoạ, lên quan nhận chức, thừa kế chức tước hay sự nghiệp, nhập học, học kỹ nghệ, làm lễ cầu thân, vào làm hành chính, đơn từ, kiện tụng

Nhị thập Bát tú – Sao: Quỷ

Việc nên làm: Chôn cất, chặt cây phá đất, may mặcViệc kiêng kỵ: Khởi tạo việc chi cũng hại, hại nhất là xây cất nhà, cưới gả, làm cửa, tháo nước, đào ao hồ, động thổ, xây tường, dựng cột Ngoại lệ các ngày: Tí: Đăng Viên thừa kế tước phong tốt, may mắn; Thân: Là Phục Đoạn Sát kỵ chôn cất, xuất hành, thừa kế, chia tài sản, khởi công lập lò xưởng

Ngày Phạt nhật: Đại hung – Tam Bích: Xấu vừa

ngày đại minh cát nhật, khai trương

Sao tốt Sao xấu

Thiên Xá: Tốt cho tế tự, giải oan, trừ được các sao xấu, chỉ kiêng kỵ động thổ. Nếu gặp trực khai thì rất tốt tức là ngày thiên xá gặp sinh khí;Thiên Quan trùng với Tư mệnh Hoàng Đạo: Tốt mọi việc;Nguyệt Không: Tốt cho việc làm nhà, làm gường;Ngũ phú: Tốt mọi việc;Phúc Sinh: Tốt mọi việc;Hoạt điệu: Tốt, nhưng gặp thụ tử thì xấu;Mẫu Thương: Tốt về cầu tài lộc, khai trương;Đại Hồng Sa: Tốt mọi việc;Trực tinh: Đây là sao rất tốt cho sự xây cất nhà cửa;

Lôi công: Xấu với xây dựng nhà cửa;Thổ cẩm: Kỵ xây dựng, an táng;

Hỉ Thần: Đông Bắc – Tài Thần: Đông Nam – Hạc Thần : Tây Bắc

Ngày Thanh Long Túc: Không nên đi xa, xuất hành tài lộc không có, kiện cáo đuối lý.

Giờ Tiểu Các [Tí (23h-01h)]: Rất tốt lành. Xuất hành gặp may mắn, buôn bán có lợi, phụ nữ có tin mừng, người đi sắp về nhà. Mọi việc đều hòa hợp, có bệnh cầu sẽ khỏi, người nhà đều mạnh khoẻ.Giờ Tuyết Lô [Sửu (01-03h)]: Cầu tài không có lợi hay bị trái ý, ra đi hay gạp nạn, việc quan phải nịnh, gặp ma quỷ phải cúng lễ mới qua.Giờ Đại An [Dần (03h-05h)]: Mọi việc đều tốt lành, cầu tài đi hướng Tây Nam Nhà cửa yên lành. Người xuất hành đều bình yên.Giờ Tốc Hỷ [Mão (05h-07h)]: Tin vui sắp tới, cầu tài đi hướng Nam. Đi việc gặp gỡ các quan gặp nhiều may mắn, chăn nuôi đều thuận, người đi có tin về.Giờ Lưu Niên [Thìn (07h-09h)]: Nghiệp khó thành, cầu tài mờ mịt. Kiện cáo nên hoãn lại. Người đi nên phòng ngừa cãi cọ.Giờ Xích Khẩu [Tị (09h-11h)]: Hay cãi cọ gây chuyện, đói kém phải phòng. Phòng ngừa người nguyền rủa, tránh lây bệnh (Nói chung khi có việc hội họp, việc quan tranh luận.tránh đi vào giờ này, nếu bắt buộc phải đi thì nên giữ miệng, tránh gây ẩu đả cãi nhau).Giờ Tiểu Các [Ngọ (11h-13h)]: Rất tốt lành. Xuất hành gặp may mắn, buôn bán có lợi, phụ nữ có tin mừng, người đi sắp về nhà. Mọi việc đều hòa hợp, có bệnh cầu sẽ khỏi, người nhà đều mạnh khoẻ.Giờ Tuyết Lô [Mùi (13h-15h)]: Cầu tài không có lợi hay bị trái ý, ra đi hay gạp nạn, việc quan phải nịnh, gặp ma quỷ phải cúng lễ mới qua.Giờ Đại An [Thân (15h-17h)]: Mọi việc đều tốt lành, cầu tài đi hướng Tây Nam Nhà cửa yên lành. Người xuất hành đều bình yên.Giờ Tốc Hỷ [Dậu (17h-19h)]: Tin vui sắp tới, cầu tài đi hướng Nam. Đi việc gặp gỡ các quan gặp nhiều may mắn, chăn nuôi đều thuận, người đi có tin về.Giờ Lưu Niên [Tuất (19h-21h)]: Nghiệp khó thành, cầu tài mờ mịt. Kiện cáo nên hoãn lại. Người đi nên phòng ngừa cãi cọ.Giờ Xích Khẩu [Hợi (21h-23h)]: Hay cãi cọ gây chuyện, đói kém phải phòng. Phòng ngừa người nguyền rủa, tránh lây bệnh (Nói chung khi có việc hội họp, việc quan tranh luận.tránh đi vào giờ này, nếu bắt buộc phải đi thì nên giữ miệng, tránh gây ẩu đả cãi nhau).

Xem tiếp các bài: Xem ngày theo tuổi Xem ngày làm nhà Xem ngày cưới Xem ngày khai trương Tra cứu sim phong thuỷ Gieo quẻ đoán việc Những cách thay đổi vận mệnh Con số may mắn theo 12 con giáp

Xem tử vi ngày 6 tháng 2 năm 2021 thứ 7 (Âm lịch: ngày 25-12 – Ất Dậu 乙酉 [Hành: Thủy]) của 12 con giáp các tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi về công việc, tài lộc, sức khỏe, tình duyên và sự may mắn.

Tử Vi Số Mệnh: Phong Thủy Học

Giới thiệu : Đã có rất nhiều người viết về thuật Phong thủy . Gần đây một người bạn của dienbatn : Trường Minh – có bút hiệu NCD là một nhà nghiên cứu Phong thủy giỏi và một người trong Huyền môn đã tổng hợp các sách cổ , tư liệu về Phong thủy để viết lại vấn đề này . Tuy chưa phải là đầy đủ và có một vài điều riêng dienbatn chưa nhất trí , song đây là một tài liệu tốt cho những người nghiên cứu Phong thủy . Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn . Nguồn lấy từ chúng tôi Thân ái . dienbatn.

_Nếu bạn nữ nào còn độc thân muốn tìm ý trung nhân nên dùng biểu tượng, hình vẽ, hoặc hoa Mẫu Đơn thật trong phòng ngủ. Vì nó là biểu hiện của người phụ nữ đa tình nên không thích hợp cho phụ nữ có chồng, nhưng với các cô gái thì đây là một biểu tượng tốt, rất tốt nữa là khác. Hãy để biểu tượng này ở góc Tây Nam của nhà, và cả góc Tây Nam của phòng ngủ.

_ Hãy đeo đồ trang sức có biểu tượng Song Hỷ.

_ Đặt biểu tượng đôi Uyên Ương, đôi Vịt Bắc Kinh ở góc Tây Nam nhà, và cả góc Tây Nam của phòng ngủ.

_ Đặt giường ngủ quay đầu về hướng Diên Niên.

_ Đặt một tấm gương soi gần cửa sổ làm sao để ánh trăng phản chiếu vào nó soi vào phòng. Năng lượng cực Âm của Mặt Trăng sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn!!!

_ Vào những đêm trăng sáng như RẰM chẳng hạn, hoặc những đêm Trăng Non, bạn hãy tắm mình trong năng lượng Thái Âm huyền diệu của Mặt Trăng !!!

Nói đến Bếp, nhiều người vẫn lầm lẫn một cách tai hại, nhân đây, NCD xin nói rõ rằng: hướng Bếp và Miệng lò….. hoàn toàn không phải là một!

Hướng Bếp là: Mép, bìa của khuôn đặt Bếp, nó đối diện trực tiếp với mặt người nấu tức là Táo khẩu. Miệng lò là: Chỗ đưa củi vào đốt, hay nói cách khác, đó chính là Hỏa môn.

Có danh từ Táo khẩu vì: Bếp xưa kia có đóng khung bốn bên vách, vách ở Hướng Bếp được cắt đôi, chừa một khoảng trống để quét tro, than trên mặt khuôn bếp ra cho sạch sẽ. Chỗ đó làm thành cái Miệng của Bếp nên gọi là Táo khẩu. Cho nên Táo khẩu xác định Hướng bếp

Bếp ngày nay không có đóng khung bốn vách, chỉ là 1 tấm bê-tông để đặt Lò, Bếp gaz lên nấu nướng thôi. Vậy thì: Hướng bếp là bìa đối nghịch với lưng Bếp, hay nói đơn giản hơn cho dễ hiểu, Hướng Bếp chính là hướng lưng của người nấu Bếp vậy.

BẾP là nơi nấu nướng thức ăn để nuôi dưỡng chúng ta, nên có thể nói Bếp hút dưỡng chất trong không khí vào để giúp lửa cháy. Do đó, nếu Hỏa môn hút những trược khí, nghịch hay ác khí, tất sẽ đem lại những ảnh hưởng tai hại. Cũng ví như ta hút những chất độc hại đó vào thức ăn vậy.

Cho nên, Hỏa môn phải thuận hợp cung mạng của Trạch chủ.

Mặt sau của Bếp là nơi Hỏa khí thịnh vượng, vì sức lửa cháy dồn tới mà, cho nên nó có tác dụng trấn áp hung hại, cần xoay mặt sau về hướng xấu.

Mặt trước của Bếp (trước Hỏa môn và Hướng bếp) không nên trực diện với nhà xí, nhà tắm, nơi có uế khí, bồn chứa nước, bồn rửa mặt, sàn rửa chén bát, lu nước, giếng nước. Vì Thủy Hỏa tương khắc, nên nếu là Nước thì trong nhà sẽ gây gỗ, cải vã; còn nếu là ô uế thì sẽ bệnh đau.

Trước Bếp và trước trang thờ Ông Táo không nên làm phòng ngủ hay để giường ngủ, vì sẽ khiến người nằm ở đó đau tim, đau ngực, con cháu không lương thiện, gia đạo bị phá tán, tai nạn liên miên.

Không nên để Hỏa môn xoay ra phía cửa, đây là điều Đại Kỵ trong Phong Thuỷ với Bếp, nó là “Khai môn đối Táo, tài súc đa hao”.

Không nên đào hầm hố ngay trước Bếp, nếu có nước thì càng nguy, nó gây nên hư mắt, bệnh tật, xảy ra nhiều việc quái đản.

Không nên để BẾP và Giếng nước, hồ, lu nước liền kế bên nhau sẽ khiến mẹ chồng và nàng dâu bất hòa.

Bếp đặt trên đường nước, hầm nước: gia đạo ly tán, bất hòa.

Phòng ngủ và Hầm nước trước Bếp: Cô quả, tuyệt tự.

Hai bên Bếp gaz có vòi nước là quẻ Ly, tối kỵ.

Vòi nước ở giữa, hai bên là hai bếp gaz, quẻ Khảm, được.

ĐẠI KỴ để Bếp nằm dưới giường ngủ ở tầng trên.

Không nên để mặt sau của Bếp hướng về chuồng gia súc: gia súc tiêu hao; hướng về phòng ngủ: bệnh đau, tai nạn.

Về Hỏa Môn, nên xoay theo một trong bốn hướng tốt của gia chủ, và Du niên tốt của Bếp với Quái số của gia chủ, sẽ có thể hóa giải Hướng nhà xấu.

Ví dụ: Gia chủ có quái số là 1- cung Khảm, Cửa cái nhà là hướng KHÔN. Khảm_ Khôn biến du niên Tuyệt Mạng. Dùng Hỏa môn hướng về CHẤN, ta sẽ có: Khảm+ Chấn biến du niên THIÊN Y đủ sức hóa giải TUYỆT MẠNG.

Về Hỏa môn hóa giải Hướng nhà xấu, có ba trường hợp hóa giải đối với ba hướng xấu nhất, xin hãy nhớ kỹ :

Ngoài ra, khi xoay hướng Hỏa Môn, cần lưu ý điểm sau: Xét ba cung: Hỏa môn_ Cửa cái_ Quái số của gia chủ xem có rơi vào thuần Dương hay thuần Âm không. Vì theo Dịch lý “Cô Dương bất trưởng _ Độc Âm bất sinh”. Và đây là bảng phân biệt Âm Dương của 8 cung

_ Các cung Dương: Càn, Khảm, Cấn, Chấn.

_ Các cung Âm: Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Nếu cung Mệnh gia chủ đã là Dương, gặp cửa cái cũng thuộc Dương, thì ta nên tìm Hỏa môn thuộc Âm

Đấy là kinh nghiệm của người đi xem nhà.

Nếu để rơi vào trường hợp Cô Dương hay Độc Âm: Ở lâu nhà đó sẽ TUYỆT TỰ.

Nếu gia chủ kém phúc thì chỉ trong một đời, chậm thì cũng chỉ tối đa là đến đời thứ ba, là nhà dần không còn con trai nối dõi, phụ nữ chấp trưởng trong nhà.

Bếp ở giữa mái hiên mà hai đầu không có cột: Chỉ sống nhờ người khác

Có xưởng lớn trước Cửa Bếp thì tán tài.

Bếp ở trước cửa: Bị Hỏa tai hay có bịnh về máu huyết.

Bếp ở liền với cối giã gạo: Có người trong nhà thắt cổ hay tự trầm.

Trước Cửa Bếp có khối đá chắn ngang: Trẻ con nhiều bệnh.

Bếp và Giếng cùng một hành lang: Con dâu và con gái lục đục.

Bếp đối diện với chuồng gà: Sinh chuyện dâm dục bị chê cười.

Bếp đặt phương Ngọ: Thường bị Hỏa tai và đau Mắt (bởi Ngọ là thuộc Ly Hỏa, nên Hỏa càng vượng, mà Hỏa vượng thì Mắt mờ_ theo y khoa).

Sau Bếp mở cửa sổ sáng láng: Tiêu hao tiền của.

Trước sau tả hữu Bếp có cửa mở xông vào: Bị thưa kiện tán tài.

Bếp đặt ở chỗ mọi người đều trông thấy: Tán tài.

Bếp đặt ở hướng Đông Bắc: Bị Thủy tai hoặc trộm cướp.

Cửa Bếp thông với Cửa Buồng: Bị bệnh thổ huyết.

Như đã nói ở trên, BẾP nên đặt ở Hung phương nhằm trấn áp Hung khí, Tà khí ở đó. Còn Hỏa môn thì xoay một trong bốn hướng tốt, thuận hợp với Quái số của gia chủ.

Vậy thì, nếu BẾP đặt đúng vị trí thì có ích lợi gì? đặt sai vị trí thì bị hung hại gì?

Đây là 8 vị trí đặt BẾP ở các hướng trong nhà và ảnh hưởng của nó:

1/.Bếp đặt tại cung Sanh Khí của gia chủ: thì phụ nữ sinh quái thai hoặc hư thai, hay không đẻ được, hoặc có con mà không thông minh; không được tài lộc, điền địa; lục súc tổn hại.

2/.Bếp đặt tại cung Diên Niên của gia chủ: thì không thọ; hôn nhân không thành, nếu đã có gia đình thì vợ chồng bất hòa hợp; tốn của; hao người; bệnh hoạn; cùng quẩn.

3/.Bếp đặt tại cung Thiên Y của gia chủ: thì lâm bệnh nặng, thân thể ốm yếu, phục thuốc thang lâu khỏi.

4/.Bếp đặt tại cung Phục Vì của gia chủ: thì vô tài; vô thọ; suốt đời nghèo khổ.

5/.Bếp đặt tại cung Tuyệt Mạng của gia chủ: thì không bệnh tật, tăng thọ, phát tài, nhiều con, tìm được gia nô, không bị Hỏa tai.

6/.Bếp đặt tại cung Lục Sát của gia chủ: thì phát cả Đinh lẫn Tài (là người lẫn của), vô bệnh tật, vô kiện cáo, vô Hỏa tai, cửa nhà yên ổn.

7/.Bếp đặt tại cung Ngũ Quỷ của gia chủ: thì vô Hỏa tai, vô đạo tặc (không trộm cướp), gia nô (người giúp việc) trung thành- cần mẫn- đắc lực, vô bệnh hoạn, phát tài, lục súc thịnh vượng.

8/.Bếp đặt tại cung Họa Hại của gia chủ: thì bất thoái tài, bất thương nhân (là không hao tổn tiền của, không hại người), vô bệnh hoạn, vô kiện tụng.

Ngoài ra, trong việc đặt vị trí Bếp, khoa Phong Thuỷ còn tính chi li hơn khi tính đến vị trí của từng Sơn. Đọc đến đây là các anh chị, các bạn đã tiến thêm một bước nữa vào khoa Phong Thuỷ, vì bây giờ không chỉ nói đến tám hướng Bát Quái căn bản nữa, mà mỗi hướng Bát Quái lại chia ra 3 Sơn nhỏ trong đó nữa. Cụ thể như sau:

_ Càn gồm ba Sơn: TUẤT-CÀN-HỢI.

_ Khàm gồm ba Sơn: NHÂM-TÝ-QUÝ.

_ Cấn gồm ba Sơn: SỬU-CẤN-DẦN.

_ Chấn gồm ba Sơn: GIÁP-MẸO-ẤT.

_ Tốn gồm ba Sơn: THÌN-TỐN-Tỵ .

_ Ly gồm ba Sơn: BÍNH-NGỌ-ĐINH.

_ Khôn gồm ba Sơn: MÙI-KHÔN-THÂN.

_ Đoài gồm ba Sơn: CANH-DẬU-TÂN.

Đến đây, hẳn các anh chị, các bạn có thể thấy những tên gọi này hơi quen quen phải không? Xin thưa, trở ngược lên trên các anh chị, các bạn sẽ thấy ngay hình vòng tròn Bát Quái có 24 Sơn này, và không chỉ thế, nó còn có thêm các chấm tròn trắng hoặc đen ngay kế bên nữa. Rất dễ xác định Sơn nào tốt để đặt Bếp, xin cứ chọn những ô có chấm tròn trắng là Cát, đen là Hung. Và NCD xin đăng luôn một bài thiệu để các anh chị, các bạn dễ nhớ:

Táo (tức là BẾP đấy quý vị) nhập CÀN cung thị diệt môn (thế nào cũng chết người).

NHÂM- HỢI nhị vị tổn nhi tôn ( là hại con cháu ).

GIÁP- DẦN đắc tài, THÌN- MẸO phú.

ẤT- CẤN tao(là tao ngộ ) Hỏa tất tai ôn (là gặp tai họa, bệnh tật).

TÝ- QUÝ- KHÔN cung gia bần khốn (là nhà nghèo khổ, nạn tai liên miên).

SỬU thương lục súc, phúc nan tồn (khó nuôi súc vật, phúc đức tiêu hết).

TỴ- BÍNH ích tàm, CANH đại cát ( Ích tàm là lợi về nuôi tằm, dệt vải).

Nhược phùng NGỌ vị vượng nhi tôn (nhiều con cháu).

TÂN- DẬU- ĐINH phương đa tật bệnh (nhiều bệnh tật).

TỐN- THÂN- MÙI- TUẤT trạch hanh xương (hanh thông, thuận lợi mọi việc).

Cầu tử ở đây là cầu con đấy, xin đừng hiểu lầm là chữ Tử kia thì phiền lắm đa!

Theo các ” tiền bối ” xưa thì có hai cách qua việc đặt Bếp, nhưng qua kinh nghiệm đi xem của NCD tôi, thì thấy cách thứ hai ứng nghiệm xác suất cao hơn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi ra đây cả hai cách để các anh chị, các bạn tham khảo và thử xem:

1/.Đặt BẾP trấn tại Hung phương của gia chủ và Hỏa môn xoay hướng SANH KHÍ sẽ sớm sinh quý tử.

2/. Đặt BẾP trấn tại Hung phương và Hỏa môn xoay hướng PHỤC VÌ của gia chủ, đến năm sao THIÊN ẤT QUÝ NHÂN chiếu đến cung này sẽ ứng nghiệm ngay. Thế sao THIÊN ẤT QUÝ NHÂN là gì? Đó là sao Nhị Hắc đấy, là sao số 2 đó quý vị. Còn cách tính đường đi của sao đây :

Ở đây tôi không muốn đi sâu vào phần nguồn gốc các ô vuông này, chỉ nói về đường di chuyển của các sao. Xin quý vị lưu ý cho, phần tính đường đi của các sao này rất quan trọng, sau này khi nghiên cứu về Huyền Không, thì đây là cách di chuyển của các sao, còn gọi là phép Lường Thiên Xích.

Luôn luôn khởi từ Trung cung (cung giửa) và kế đến là ô số 6, rồi ô số 7, rồi ô số 8… cho đến ô số 4, rồi quay lại Trung cung, cứ thế mà di chuyển. Để cho dễ nhớ, quý vị hãy thuộc làu thứ tự sau:

Nhất KHẢM- Nhì KHÔN- Tam CHẤN- Tứ TỐN- Ngũ TRUNG- Lục CÀN- Thất ĐOÀI- Bát CẤN- Cửu LY.

Đó là ô vuông căn bản, nếu ô giửa không phải là số 5 thì cũng vậy, đường di chuyển cũng vậy, và các số cứ tăng dần, hay giảm dần theo đường di chuyển đó.

Ví dụ: Cho số 8 vào giửa chẳng hạn, ô vuông lúc đó sẽ thành thế này sau khi di chuyển các SAO

7 3 5 Vì sao số 8 ở giửa nên sao số 9 di chuyển xuống theo thứ

tự đến ô góc Tây Bắc và an ở đó; kế số 9 là số 1 sẽ

6 8 1 chuyển theo đường như vậy lên an ở ô hướng tây…

cứ vậy mà di chuyển. Khi quý vị đã nhớ đường

2 4 9 ô vuông Lạc Thư rồi thì rất dễ, bước đầu có hơi khó một tí, nhưng xin hãy cố

mà nhớ đường đi này của các Sao, vì sau này nó ứng dụng rất nhiều trong việc

hỗ trợ chúng ta trong việc nghiên cứu phái Huyền Không.

Xin trở lại với Sao THIÊN ẤT kia, như đã nói nó là sao số 2. Vậy bây giờ, giả sử gia chủ có quái số là 8 chẳng hạn. Ta xoay Hỏa môn hướng Phục vì tức là xoay hướng cung CẤN

Xem hình căn bản, ta thấy để đi đến cung này, từ trung cung phải đếm tới 3 cung nữa. Bây giờ, điều ta cần là số 2 ở đó, tức là: số 1 ở Đoài, số 9 ở CÀN, số 8 ở giữa.

Vậy khi nào số 8 ở giữa? Con số ở giửa là con số của Sao chủ tinh năm đó.

Vậy làm sao tìm Sao chủ tinh của năm ?

Xin mách các anh chị, các bạn một cách tìm cực kỳ nhanh khỏi cần phải tra sách do NCD để ý thấy: Xin tính Quái số của Nam năm cần tìm, thì đó là Sao chủ năm đó

Vậy năm đó Sao số 4 nằm ở Trung cung. Đưa số 4 vào giửa rồi di chuyển các sao, ta sẽ có 9 ô vuông năm đó là: 3 8 1

vì sau năm 2000 nên không lấy 10 mà chỉ lấy 9 trừ đi thôi, xin đừng quên!

vậy Sao chủ tinh của năm nay là số 8, hay nói cách khác, năm 2010 số 8 nằm ở trung cung

Nhập số 8 vào giửa rồi di chuyển theo hướng đi căn bản ở trên, ta có 9 ô sau :

Có nghĩa là những ai có quái số là 8, xoay Hỏa môn hướng Đông Bắc, sang năm sẽ sinh con (wao, dĩ nhiên ở đây là NCD nói những ai có gia đình và muốn có con đó nghen! Chứ những người không có gia đình mà hỏi cắc cớ là tội NCD lắm; hay là có gia đình mà chưa muốn có con, đi kế hoạch thì làm sao có con được?! Cái gì cũng phải hợp lý phải không quý vị?)

Cái vụ này rắc rối quá, thôi thư giản chút vậy.

NCD xin chỉ vụ này dễ hơn và tin rằng ai cũng muốn biết, đó là Cầu Tài Bí Pháp

Cái này thì rất đơn giản, chỉ cần đặt BẾP trấn Hung phương, Hỏa môn xoay hướng Diên Niên, thế là….xong! đơn giản không?

Dĩ nhiên, bất cứ làm việc gì trong khoa Phong Thuỷ này cũng cần xem ngày giờ, và đó là điều…QUAN TRỌNG NHẤT!!!

1/.Phòng tắm không nên ở cuối một hành lang dài: Lối đi sẽ lùa luồng khí di chuyển nhanh trở thành Ác Khí, qua cửa Phòng tắm, làm thương tổn các vấn đề nội tạng, cũng như sự sáng tạo của các thành viên trong nhà.

2/.Tránh làm Phòng tắm chung vách hoặc đối diện với Phòng ngủ, nếu có đối diện thì nên tránh làm hai cửa đối diện. Nhưng nếu làm Toilet chung với nó thì tốt nhất nên tránh đi.

3/.Tránh hai cửa Phòng tắm đối diện nhau: Những người cư ngụ ở đó thường có cảm giác bệnh tật chạy dọc theo đường trung tâm cơ thể của họ, hoặc phải chịu đau đớn của cơ thể, và các vấn đề về tài chánh sẽ suy giảm.

4/.Phòng tắm không nên làm hai cửa: Vì Phòng tắm là nơi tập trung nguồn nước nhiều nhất _ mà theo quan niệm Phong Thuỷ, nước là biểu tượng của tiền bạc_ nếu hai cửa, thì lợi nhuận sẽ tuôn chảy mất hết.

5/.Phòng tắm và Toilet đối diện cửa chính: Nghĩa là vừa bước vào cửa đã thấy ngay Phòng tắm hay Toilet. Ở vị trí này, Sinh Khí mới chuyển vào nhà, đã bị Phòng tắm và Toilet cuốn trôi đi hết.

6/.Phòng tắm và Toilet đối diện với nhà Bếp hoặc ở trong nhà bếp: Trường hợp này thường thấy ở những nơi diện tích nhà nhỏ hẹp, hay ở một số nhà hàng nhỏ ở Việt Nam ta. Về mặt khoa học, Bếp và Toilet gần nhau là điều mất vệ sinh. Về mặt Phong Thuỷ, Bếp là Hỏa ,Toilet là Thủy, nếu Thủy vượng tất Hỏa phải tắt, Hỏa tắt thì Bếp nguội lạnh. Một căn nhà mà Bếp nguội lạnh là điều không tốt rồi, huống hồ là một tiệm ăn, một nhà hàng, sẽ vắng khách là điều tất nhiên.

7/.Phòng tắm hay Toilet quá nhỏ: Có nhiều người suy nghĩ được nhiều điều hay, giải quyết được nhiều vấn đề, hoặc có những sáng kiến mới lạ, là cũng ngay trong những giây phút riêng tư trong Phòng tắm hay Toilet. Bởi vậy, nếu Phòng tắm hay Toilet quá nhỏ, sẽ giới hạn Sinh Khí vào nơi này. Cũng có nghĩa là giới hạn sự suy nghĩ và sáng tạo của những người có thói quen như vậy. Nhưng điều trở ngại chính là Sinh Khí vào đây gặp không gian tù túng sẽ khó luân lưu, Khí bị tù hãm, từ Sinh Khí sẽ thành Ác Khí.

8/.Phòng tắm và Toilet tối kỵ nền cao hơn nền Phòng ngủ

9/.Phòng tắm riêng thì không nên to rộng quá: Nó tạo cảm giác lạnh lẽo, thiếu sự kín đáo, nghiêm túc, khiến người tắm hay có cảm giác bất an.

10/.ĐẠI KỴ đặt Phòng tắm hay Toilet ở Đông Nam hoặc Tây Nam: Như đã nói ở các phần trước, góc Đông Nam là cung TÀI LỘC, góc Tây Nam là cung TÌNH DUYÊN và HÔN NHÂN. Như vậy, mỗi lần chúng ta tắm hay giật nước bồn cầu là mỗi lần sinh Khí bị cuốn trôi. Đó cũng có nghĩa là những may mắn, tiền bạc, Tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước.

Đấy là trường hợp nhà ở đô thị, Phòng tắm và Toilet ở hẳn trong nhà. Ở vùng nông thôn, các nhà Vệ sinh thường được làm riêng bên ngoài. Tuy nhiên, dù có làm ở trong hay ngoài thì nó vẫn theo một số điều căn bản bắt buộc:

_ Nhà Vệ sinh không nên đặt ở hai phương Bắc và Đông Bắc: thường khiến Nam, Nữ chủ nhân mắc bệnh động mạch xơ cứng, gan cứng, mật kết sỏi, đi lỵ, đau dạ dầy, đại tiện bí, ăn bị trúng độc, khí huyết không lưu thông. Với người già thì sức khoẻ càng không tốt .

Nếu quý vị nhận thấy bị đau lưng dai dẳng, thường ruột hay bị bệnh thì hãy kiểm tra nhà xí. Chắc chắn nhà xí ở đó đã có vấn đề không hợp.

_ Nhà Vệ sinh nên tránh đặt ở những cung địa chi trong 24 Sơn đã nói ở phần trước, vì sẽ phạm phải Thái Tuế vào những năm trùng tên với địa chi ấy, hoặc 6 năm sau phạm Tuế Phá.

Ví dụ: đặt Toilet ở cung Sửu chẳng hạn. Đến năm Sửu, sẽ phạm Thái Tuế. Sáu năm sau, đến năm Mùi, sẽ bị phạm Tuế Phá.

Đó là lý do vì sao ở trên NCD khuyên nên tránh hai cung Tý và Sửu.

_ Nhà Vệ sinh nên đặt ở những nơi nghịch với nhóm Quái số của gia chủ.

Ví dụ: Gia chủ có Quái số là 4_ cung Đoài. Thì nên tránh đặt Toilet trấn ngay cung Đoài.

Nhà Vệ sinh mà đặt nơi Sinh phương tức là phá vỡ Cát tinh, rất bất lợi.

_ Nhà Vệ sinh ĐẠI KỴ an tại trung cung (kể cả hầm cầu).

Đây là cách cục XÚ UẾ NHẬP TRUNG CUNG_ cực kỳ xấu về mặt Phong Thuỷ.

Ngoài những điều căn bản nói trên, NCD xin nhắc các anh chị, các bạn thêm ba điểm nữa:

_ Trong nhà, nếu có bất kỳ vòi nước, ống nước nào bị rò rĩ, xin hãy sửa hoặc thay ngay. Bởi Nước là Tiền mà! Để nước chảy rỉ rả như thế là hiện tượng thất thoát, hao tổn tài sản, tiền của đấy!

_ Hãy làm sạch vùng không gian Phòng tắm và Toilet: Hãy dẹp bỏ những thứ gây bề bộn trong phòng tắm như: Giỏ rác đầy ứ, chai lọ hoặc ống kem đánh răng rỗng, đĩa đựng xà bông không cần thiết, thuốc hết hạn sử dụng, mỹ phẩm khuyến mãi….không dùng đến, dầu tắm và nước hoa….không bao giờ dùng….vv..

Tất cả những thứ này đều là những thứ có thể tích tụ năng lượng Âm xấu, gây hại cho ta.

_ Nhiều người cho rằng để xóa ảnh hưởng xấu của toilet thì nên trang trí Toilet bằng tranh ảnh, chưng hoa trong đó. Nhưng theo NCD, xin khuyên các anh chị, các bạn đừng nên. Vừa lãng phí, vừa vô bổ không ích lợi gì, nếu không muốn nói là còn gây hại. Xin quý vị hãy cẩn thận!

Nói đến giếng nước là ta nói đến một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của mọi người. Ở thành thị thì còn có nước fountain, nhưng ở một số vùng quê Việt Nam hiện nay, vẫn còn nhiều vùng xài giếng, lấy đó làm nguồn nước sinh hoạt, ăn uống, tắm giặt..vv… Do đó, nói đến Giếng nước là ta phải bàn đến sự tinh khiết, sạch sẽ làm đầu. Bởi không thể nào lấy một nguồn nước nhiễm bẩn, một nguồn nước ô nhiễm, ô uế để nấu ăn được.

Do vậy, điều đầu tiên mà NCD muốn nói đó là: Giếng phải đặt ở phương Sinh Vượng với Mạng gia chủ. Cũng như với các phần trước, dựa theo Quái số của gia chủ để tìm cung thích hợp để đặt Giếng. Ngoài ra, khoa Phong Thuỷ xưa cũng đưa ra một số phương hướng nên và không nên đặt Giếng, NCD xin đưa ra để các anh chị, các bạn tham khảo xem:

_ Càn: Bị đầu nhọt lỡ, chân tê liệt, thắt cổ tự vận, bị tai nạn gãy nát đùi.

_ Khảm: Bị trộm cướp, nhiều bệnh tật.

_ Cấn: Vượng tài nhưng không con.

_ Khôn: Giàu có, thịnh vượng.

_ Đoài: Đại dâm, ứng vào thiếu nữ; không con.

_ Tý: Sẽ sinh ra người điên cuồng.

_ Sửu: Anh em không hòa thuận, nhà có người bị câm điếc, đui mù.

_ Mẹo: Bị tai bay vạ gió, bệnh tật.

_ Thìn: Mọi việc đều bất lợi, gia trưởng bị nạn trước, rồi đến người nhà, có người nhảy sông tự trầm.

_ Mùi: Có công danh, giàu sang.

_ Thân: Bị trộm cướp, khó sinh đẻ.

_ Tuất: Con nhỏ chết, con lớn bệnh, mọi việc đều bất lợi.

_ Hợi: Con cháu thông minh, thịnh vượng.

_ Giáp: Sẽ được nhiều của, nhưng nhiều bệnh tật.

_ Đinh: Vượng về lộc và con trai.

_ Tân: Nam nữ trong nhà đều trong sạch, sống có đạo đức.

_ Nhâm: Phát tài, vượng nhân đinh nhưng thường có quái tật.

_ Quý: Giàu có, vàng bạc đầy nhà.

Các phương Giáp, Bính, Canh, Nhâm có Giếng, nếu gần suối sâu thì nam nữ trong nhà đều dâm loạn.

_ Không nên để nước ô uế tràn vào Giếng.

_ Làm nhà trên Giếng cũ thì bị thưa kiện.

_ Giếng sâu quá thì không tụ tài, cô quả, dâm dật.

rộng quá thì không vượng đinh, của cải lại mất dần.

dài mà sâu thì thoái tài, hại nhân khẩu.

sâu mà làm chỗ đất cao thì đàn bà trong nhà làm loạn.

_ Giếng làm sát bên phòng ngủ mà có thai thì sẽ trụy thai.

_ Trồng hoa bên Giếng thì sẽ cờ bạc, xa hoa.

_ Đắp tường quanh Giếng thì sẽ…yêu con ở (?!).

Ngoài ra, tất cả các nơi có nước ở Dương Trạch lẫn Âm Trạch đều phải tránh phạm phải HOÀNG TUYỀN. Đây là một đại kỵ trong Phong Thuỷ. Xin hãy lưu ý!!!

Nói đến HOÀNG TUYỀN là nói đến một phương vị gần như bất khả xâm phạm trong Phong Thuỷ vậy. Bởi các Hung Phương như Thái Tuế, Ngũ Hoàng Sát, Tam Sát thì chỉ theo năm mà di chuyển đi, còn HOÀNG TUYỀN là phương vị cố định. Khi nhà, mộ mà xác định hướng nào đó là đã có một vài phương hướng không thể phạm. Chữ “phạm” ở đây ý nói ở nhưỡng nơi ấy có thể kiêng kỵ: phóng thủy (thãi nước ra), đường đi, nước chầu lại, lạch nước…vv… thậm chí ngay cả trổ cửa, chọn ngày giờ khởi công cũng phải tránh nó nữa đấy!.

Trước tiên, NCD tôi xin giới thiệu với các anh chị, các bạn hai loại HOÀNG TUYỀN thường được nói đến nhiều nhất trong khoa Phong Thuỷ. Đó là: TỨ LỘ HOÀNG TUYỀN và BÁT SÁT HOÀNG TUYỀN.

Canh, Đinh KHÔN thượng thị HOÀNG TUYỀN

Ất, Bính tu phòng TỐN thủy tiên

Giáp, Quý hướng trung ưu kiến CẤN

Tân, Nhâm thủy lộ phạ đương KIỀN.

Tức là làm nhà lập hướng CANH- ĐINH nên cẩn thận với nước phương KHÔN.

CANH hướng mà thấy ở phương KHÔN có nước thì nên chảy đến, chảy đi là phạm HOÀNG TUYỀN.

ĐINH hướng mà làm nhà thì nước phương KHÔN nên chảy đi, chảy đến là phạm HOÀNG TUYỀN.

ẤT hướng thì phương TỐN nước nên chảy đi, chảy lại là phạm HOÀNG TUYỀN.

BÍNH hướng thì nước phương TỐN nên chảy chầu lại, chảy đi là phạm HOÀNG TUYỀN.

GIÁP hướng thì nước phương CẤN nên chảy lại , nếu chảy đi là phạm HOÀNG TUYỀN.

QUÝ hướng thì nước phương CẤN nên chảy đi, nếu chảy lại là phạm HOÀNG TUYỀN.

TÂN hướng thì nước ở KIỀN ( CÀN ) nên chảy đi , nếu chảy đến là phạm HOÀNG TUYỀN.

NHÂM hướng thì nước ở KIỀN nên chảy đến , chảy đi là phạm HOÀNG TUYỀN.

Khảm Long, Khôn Thố, Chấn sơn Hầu.

Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà đầu.

Phạm chi MỘ-TRẠCH nhất tề hưu.

Nhà Toạ (mặt sau nhà) Khảm thì ở phương THÌN (Long là Rồng, là cung Thìn) không nên trổ Cửa, đào Giếng, kỵ thấy lạch nước.

Nhà Toạ Khôn thì ở phương MẸO là kỵ.

Nhà Toạ Chấn thì ở phương THÂN là kỵ.

Nhà Toạ Tốn thì ở phương DẬU là kỵ.

Nhà Toạ Kiền thì ở phương NGỌ là kỵ.

Nhà Toạ Đoài thì ở phương TỊ là kỵ.

Nhà Toạ Cấn thì ở phương DẦN là kỵ.

Nhà Toạ Ly thì ở phương HỢI là kỵ.

Và ngược lại cũng vậy. Tức là nhà tọa THÌN thì kỵ phương KHẢM vậy……

_ CÀN sơn : kỵ ngày Bính ngọ, Nhâm ngọ.

_ KHẢM sơn : ……….. Mậu Thìn, Mậu Tuất.

_ CẤN sơn : ……….. Giáp Dần, Bính Dần.

_ CHẤN-TỐN : ……….. Canh Thân, Tân Dậu.

Ngoài ra, trong vấn đề về đường hướng nước của thuật Phong Thuỷ còn một vài loại Hoàng Tuyền khác như:

Giáp phạ lưu Dần, Ất phạ Thìn

Bính- Ngọ, Đinh- Mùi yếu thương nhân

Canh- Thân, Tân- Tuất tu dương tị

Nhâm- Hợi, Quý- Sửu thị hung thần.

Kiền, Giáp, Khảm, Quý, Thân, Thìn sơn

Bạch Hổ chuyển tại Đinh-Mùi gian

Cánh hữu Ly, Nhâm, Dần kiêm Tuất

Hợi sơn lưu thủy chủ ưu phiền.

thủy nhược lưu Thân khước bất nghi.

Cánh hữu Đoài, Đinh, Tị kiêm Sửu

phạm trước Ất- Thìn Bạch Hổ khi.

Khôn, Ất nhị cung Sửu mạc phạm

thủy lai tất nam định vô nghì.

Cấn, Bính sầu phùng Ly thượng, hạ.

Tốn, Tân ngộ Khảm họa nan di.

Thử thị Hoàng Tuyền chuyên Hướng luận

Khai môn- Phóng thủy ắt sầu bi.

Xin cẩn trọng nhắc lại một lần nữa: HOÀNG TUYỀN xin chớ phạm!!!

Trong Phong Thuỷ, Gương soi được coi như là Aspirin vậy. Nó được xem là một trong những công cụ hóa giải rất tốt trong Phong Thuỷ. Ngay từ ngàn xưa, khi con người chưa có thuật tráng thủy cho kiếng như hiện nay, người ta dùng các gương đồng đánh bóng sáng lên. Ngày nay, khi các anh chị, các bạn xem phim Trung Quốc quay về các triều đại xưa, nhà nào cũng có 1 tấm gương đồng tròn xoay hướng ra ngoài cả, xin để ý thử xem.

Khi treo bên ngoài nhà, Gương có thể làm lệch hướng đe dọa khí (một con đường lộ đâm vào, một tòa nhà sát bên quá cao, một trại hòm, những mũi nhọn hàng rào nhà hàng xóm…). Trong các cấu trúc hiện đại, nhiều nhà cao tầng, những trung tâm thương mại hay dùng các bức tường Gương trước mặt, nó ngoài việc cho Khí đi vào còn có tác dụng ngăn ngừa những tác nhân xấu. Ta có thể dùng Gương soi thường, hay Gương lồi (làm chệch hướng sát khí đi nơi khác, hay làm lộn ngược hình nhà cao tầng áp sát..); và trong một số trường hợp Hung Sát nặng thì người ta dùng Gương Bát Quái (là dạng hình Bát Quái có gương ở giửa, có lúc gương phẳng, có lúc gương lõm, có lúc gương lồi). Đối với các đường chạy xe vào nhà (trường hợp này đa số không có ở Việt Nam), nếu là con đường dốc xuống, thì Gương lồi sẽ được áp dụng chung với một vài dụng cụ hóa sát khác để hóa giải).

Nhưng thông dụng nhất có lẽ là các trường hợp dùng Gương trong nội thất. Gương trong nội thất thì “Gương càng lớn càng tốt”. Gương không được thấp hơn đầu người, cũng không nên để cao quá. Nếu Gương quá thấp, chúng sẽ tạo ra bệnh đau đầu, và làm giảm dòng khí của những người sống trong nhà. Nếu treo quá cao, chúng sẽ làm cho những người trong nhà càm thấy khó chịu.

Gương treo nội thất thường dùng cho các trường hợp: Làm đầy một góc khuyết, làm mất đi một góc lồi (như cột nhà lồi ra chẳng hạn), làm rộng một khu vực chật hẹp (chiều sâu căn phòng, một hành lang hẹp…), hóa giải cầu thang tối và hẹp, thu hút những hình ảnh đẹp đẽ từ bên ngoài vào (như một vườn hoa, một dòng sông uốn lượn hữu tình…), giúp người ở trong phòng ngủ hay nhà bếp phát hiện có người vào, hóa giải trường hợp nhà thông suốt từ trước ra sau, làm cân bằng một trần nhà cao thấp chênh lệch nhiều, tạo cảm giác tăng “nhân khẩu” (tăng bếp là hình ảnh tăng người vậy)- “lợi nhuận” (khi đếm tiền một sẽ thành hai)- “khách hàng” (một người khách có thể thành hai, ba người tùy theo số kiếng), tạo hình ảnh một cửa sổ giả ở những nơi cần trổ cửa nhưng không thể mở được, tăng cường tính năng của các câu chú- lời chúc tốt đẹp…..

Nói chung, tùy trường hợp mà sử dụng. Tuy nhiên, có một số nguyên tắc không thể phạm vào như:

_ ĐẠI KỴ treo gương soi trong phòng ngủ (nhất là phòng ngủ vợ chồng vì nó tạo cảm giác có người thứ ba, và trước sau gì cũng xày ra). Nếu vì tình trạng bất khả kháng, chẳng hạn do kiếng ốp vào cửa tủ quần áo, thì đừng xoay mặt kiếng rọi vào: đầu giường, chân giường hay kể cả ngang tầm giường. Theo khoa học thì khi ta ngủ, từ trường trong người chúng ta lúc đó là yếu nhất. Gương soi ngoài tác dụng phản xạ còn có tác dụng hút, nó sẽ làm cho dòng khí trong người ta càng yếu thêm, kết quả là sang ngày hôm sau ta sẽ thấy mệt mõi hơn.

_ Ngoài việc kích thước cao thấp như đã nói ở trên kia, khi cần hóa giải về cạnh khuyết của phòng, nếu treo gương không nên treo gương ghép, mà nên dùng gương liền 1 miếng.

_ Các gương cho hình ảnh méo mó không trung thực; các gương bị sứt mẻ, nứt, vỡ; gương mờ nên bỏ đi

_ Nếu treo gương nơi có người đi qua đi lại thường, nên để ý độ lớn của kiếng, đừng để “mất đầu”, “mất chân” người, khiến người trong nhà hay bị nhức đầu, bị vấp té.

_ Không nên treo hai gương đối nhau, nó sẽ làm cho ta bối rối như mất định hướng vậy. Nhất là nhà vắng vẻ càng không nên treo hai gương đối nhau, nó sẽ khiến người trong nhà cảm thấy bất an, lúc nào cũng như có bóng người trong gương vậy.

_ TUYỆT ĐỐI TRÁNH treo gương trong phòng khách mà nhìn ra đường lớn bên ngoài, càng hung hại hơn khi đường càng đông xe qua lại (nhất là xa lộ) + gương càng lớn. Nó khiến người trong nhà luôn cảm thấy tâm trạng hoang mang, tim mạch cũng có vấn đề. Vì sao thế? Khi xe chạy trên đường, hình ảnh dòng xe đó bị hút vào gương, làm cho người trong nhà có cảm giác như mình đang ở ngoài đường lộ vậy. Các anh chị, các bạn có đủ can đảm ra ngồi giửa lộ như vậy không chứ NCD thì không dám rồi đó. Vừa điếc tai vì còi xe vừa lo ngay ngáy sợ xe tông nữa, kinh lắm!

_ Và diều cuối cùng cho gương tráng thủy là không nên lạm dụng nó. Thuốc mà dùng quá liều thì nguy đấy! Không tin bạn cứ thử vốc một nắm thuốc mà uống xem, cho dù là thuốc bổ cũng phải… bổ ngửa đấy!

Với gương Bát Quái, nó cũng là một dạng gương soi nhưng có thêm biểu tượng Bát Quái nên uy lực mạnh hơn, và cách dùng cũng khác. Gương Bát Quái dùng để treo cho trường hợp Hoá Giải bao giờ cũng là Tiên Thiên Bát Quái. Gương Bát Quái Hậu Thiên dùng để xoay chuyển hướng nhà. Xin hãy nhớ kỹ điều này! Nếu quý vị nào thấy bày bán các loại gương Hậu Thiên Bát Quái thì xin đừng thỉnh về để Hoá Giải, mà NCD nghĩ cũng không chỗ nào dại dột sản xuất vậy đâu (ai mà thỉnh? làm để ngắm à?!). Thường thì các gương Bát Quái bày bán đã có làm khoen treo sẵn, giúp bạn xác định hướng treo trên dưới. Nhưng để đề phòng tình trạng sai lệch, NCD xin chỉ rõ ra vậy: Các anh chị, các bạn cứ xem cạnh nào có 3 vạch liền, đó chính là Quẻ CÀN, là hướng lên trên, Càn vi Thiên mà! Nếu không nhớ 3 vạch liền, xin hãy nhớ câu “CÀN tam liên” (Càn là 3 vạch liền). Cái này cũng do hàm ý trên ứng với Trời, dưới hợp với Đất vậy (bởi theo Tiên Thiên Bát Quái thì trên là quẻ Càn, đối diện nó bên dưới là quẻ Khôn vậy. Thời gian vừa qua, NCD đi xem gặp rất nhiều nhà treo gương Bát Quái chẳng ra Tiên Thiên, mà cũng chẳng phải Hậu Thiên. NCD thấy kinh quá, không biết người thời đại mới này có ai mà thông minh quá, “tối chế” (chứ không phải sáng chế nữa) ra một gương Bát…. Quái Chiêu để bày bán. Do vậy, NCD xin chỉ rõ luôn để các anh chị, các bạn nào cần thỉnh gương về treo biết cách mà chọn:

_ Thứ tự từ trên cùng, theo chiều kim đồng hồ của gương Bát Quái Tiên Thiên: Càn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, Chấn, Ly, Đoài.

_ Thứ tự từ trên cùng, theo chiều kim đồng hồ của gương Bát Quái Hậu Thiên: Ly, Khôn, Đoài, Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn.

Muốn gương Bát Quái có hiệu lưc thì sau khi thỉnh về (đừng dùng chữ mua, vì theo người xưa cho rằng Bát Quái tượng trưng cho năng lượng thiêng liêng, không thể bảo mua, vậy là bất kính với thần thánh_ hàm ý như mua thần bán thánh vậy), hãy đem tới các Chùa có các vị sư đức độ, hay đến các nơi có các thầy… Lỗ Ban, để khai mở Mắt Thần cho Bát Quái_ Đây là một hình thức phù chú, dùng chữ “ÁN LAM” trong kinh nhà Phật thôi, nhưng không thể thiếu.

Khi đã mở Mắt Thần thì gương Bát Quái mới phát huy hết tác dụng của nó, chứ không thì nó chỉ là một mảnh gương nhỏ xíu với… vài vạch sơn kẻ bên ngoài thôi, có tác dụng gì đâu?!

Với gương Bát Quái, ngoại trừ gương Bát Quái lõm, tất cả các gương Bát Quái khác có một điều ĐẠI KỴ là KHÔNG ĐƯỢC TREO TRONG NHÀ!!!

Sau khi đã lược sơ qua về một số thiết kế cho nội thất như cửa cái, bếp, phòng ngủ… và một số yếu tố ngoại vi, nay NCD xin giới thiệu với các anh chị, các bạn một trường phái trong Phong Thuỷ, đó là trường phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU. Dương Trạch thì chúng ta đã biết là để chỉ nhà ở của người sống chúng ta, còn Tam Yếu là gì? Theo phái này luận, thì trong một ngôi Dương Cơ có ba điểm chính yếu, đó là: CỬA CÁI- BẾP (ở đây ý nói là Hỏa Môn tức Hướng miệng Bếp)- SƠN CHỦ hay PHÒNG CHỦ. Do đó mới gọi là Tam Yếu, tức chỉ ba điểm trọng yếu này.

Cũng như trường phái Bát Trạch Minh Cảnh, trường phái này cũng chia 8 cung Bát Quái ra làm hai nhóm: Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch.

_ Đông Tứ Trạch gồm các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn.

_ Tây Tứ Trạch gồm các cung Càn, Đoài, Cấn, Khôn.

Người có Quái số ở nhóm Đông Tứ Trạch thì ba điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Đông Tứ Trạch.

Ví dụ như: Người có Quái số là 9, là cung Ly, thuộc nhóm Đông Tứ Trạch; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn.

Người có Quái số ở nhóm Tây Tứ Trạch thì ba điểm chính yếu nên an trí trong 4 cung thuộc Tây Tứ Trạch.

Ví dụ như: Người có Quái số là 7, là cung Đoài, thuộc nhóm Tây Tứ Trạch; vậy thì ba điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở các cung thuộc Tây Tứ Trạch là Càn, Đoài, Cấn, Khôn.

Theo trường phái Phong Thuỷ này, nhà ở được chia làm hai loại: Đơn Trạch và Phức Trạch. Sự phân chia này do việc nhà có phân ngăn hay không.

Nhà từ trước ra sau không phân chia ra ngăn nào cả thuộc về Đơn Trạch, tức là nhà đơn giản. Vậy thì ta có thể hiểu Phức Trạch nói nôm na là nhà bố trí phức tạp hơn, hay là nhà có phân ngăn. Nhà không có ngăn nào cả được gọi là TỊNH TRẠCH.

TỊNH TRẠCH thì lấy ba điểm chính yếu là: CỬA CÁI- BẾP- PHÒNG CHỦ (tức là căn phòng ngủ của gia chủ, căn phòng nằm ở một góc nào đó trong nhà).

Phức Trạch lại chia ra làm ba loại, mỗi loại có sự sắp xếp các sao trong các ngăn khác nhau. Sự phân loại này dựa trên số ngăn mà nhà đó có:

_ Từ 2 đến 5 ngăn là Động Trạch.

_ Từ 6 đến 10 ngăn là Biến Trạch.

_ Từ 11 đến 15 ngăn là Hóa Trạch.

Các loại nhà thuộc dạng Phức Trạch lấy ba điểm chính yếu là: CỬA CÁI- BẾP- và SƠN CHỦ (với SƠN CHỦ là mặt hậu của nhà, đối nghịch với hướng nhà vậy).

_ CỬA CÁI: Từ mặt tiền nhà kéo một đường thẳng vuông góc với mặt tiền, lấy một đoạn bằng nửa chiều ngang mặt tiền. Đó chính là điểm đặt La bàn để xác định vị trí cửa cái. Dùng La bàn nhìn về hướng Cửa Cái xem đó là cung gì, đánh dấu vào sơ đồ nhà tên cung Cửa Cái.

_ BẾP: Từ trung tâm phòng Bếp (nếu là Phức Trạch), hay trung tâm nhà (nếu là Đơn Trạch), đặt La bàn nhìn về hướng Bếp, xác định xem Hỏa Môn xoay hướng gì, thì đó là cung của Bếp vậy. Cũng trong phái này có hai ý kiến khác nhau: Phái thì lấy ví trí đặt Bếp như bên Bát Trạch Minh Cảnh, là đặt ở vị trí xấu, ngó về hướng tốt; phái thì lấy vị trí đặt Bếp là tốt, ngó về hướng tốt luôn. Và hai phái này cứ tranh cãi suốt, luôn cho mình là đúng, đối phương là sai. Riêng NCD thì chủ trương theo phái đầu, tức đặt Bếp ở phương Hung trấn áp cái xấu, nhưng Miệng Bếp phải xoay hướng tốt. Tuy vậy, NCD tôi không chê cách nào cả, chỉ vì bản thân NCD thử nghiệm cách đầu trúng nên theo luôn, chưa thử qua cách sau, nếu quý vị nào muốn thì hãy thử xem.

_ PHÒNG CHỦ: Phòng Chủ không nhất thiết Trạch Chủ phải ngủ trong đó. Một căn Tịnh Trạch có thể có một phòng, có thể có nhiều phòng nhưng không phân ngăn thôi. Nếu có nhiều phòng thì phòng nào CAO-RỘNG- LỚN nhất sẽ được xem là phòng chủ.

Nếu chỉ có một phòng thì dù phòng đó nhỏ hẹp vẫn là Phòng Chủ. Một căn buồng chỉ che bằng màn, hay kê bằng tủ không được xem là Phòng Chủ; phải có tường vách hẳn hoi mới tính. Từ trung tâm nhà đặt La bàn nhìn về hướng Phòng Chủ xem đó là cung gì, thì đó là cung của Phòng Chủ vậy.

Theo trường phái Phong Thuỷ này, một ngôi nhà có một Du niên ảnh hưởng đến sự Hưng Suy của nhà đó, tùy theo đó là Du niên tốt hay xấu. Để an Du niên cho nhà, thì TỊNH TRẠCH và PHỨC TRẠCH hơi khác một tý.

_ TỊNH TRẠCH: Từ cung của CỬA CÁI biến tới cung của PHÒNG CHỦ, được Du niên gì thì đó vừa là Du niên của PHÒNG CHỦ, vừa là Du niên của Trạch vậy.

Thí dụ: Cửa cái là ở cung Càn, còn Phòng Chủ là ở cung Cấn, hai cung biến với nhau, Càn phối Cấn là Thiên Y, vậy Du niên của Phòng Chủ là Thiên Y, mà Du niên của Trạch cũng là Thiên Y. Ta gọi đó là nhà Thiên Y Trạch.

_ PHỨC TRẠCH: Từ cung Cửa Cái biến tới cung của Sơn Chủ, được Du niên gì thì đó là Du niên của Trạch, cũng là Du niên của Sơn Chủ vậy.

Thí dụ: Cửa cái là ở cung Khảm, nhưng Sơn chủ là ở cung Khôn, hai cung Khôn, Khảm phối với nhau ra Du niên Tuyệt Mạng, vậy Du niên của Trạch là Tuyệt Mạng, và Du niên của Sơn Chủ cũng là Tuyệt Mạng vậy. Ta gọi đó là nhà Tuyệt Mạng Trạch.

Do có sự phân chia thành hai nhóm Đông Tây, nên khi phối hợp với nhau tất có tốt, có xấu. Các cung cùng nhóm phối với nhau sẽ cho ra các Du niên tốt, các cung khác nhóm khi phối với nhau sẽ cho ra các Du niên xấu vậy. Các anh chị, các bạn có thể xem lại các bài đầu trên mục Phong Thuỷ này, để thấy cách phối hợp giửa các cung Bát Quái với nhau.

_ Sanh Khí ứng với sao THAM LANG, thuộc hành MỘC.

_ Thiên Y ứng với sao CỰ MÔN, thuộc hành THỔ.

_ Diên Niên ứng với sao VŨ KHÚC, thuộc hành KIM.

_ Phục Vì ứng với sao PHỤ BẬT, thuộc hành MỘC.

_ Tuyệt Mạng ứng với sao PHÁ QUÂN, thuộc hành KIM.

_ Ngũ Quỹ ứng với sao LIÊM TRINH, thuộc hành HỎA.

_ Lục Sát ứng với sao VĂN KHÚC, thuộc hành THỦY.

_ Họa Hại ứng với sao LỘC TỒN, thuộc hành THỔ.

Với Tịnh Trạch thì rất đơn giản. Từ cung Cửa Cái, biến tới cung Phòng Chủ xem được Du niên gì , thì đó là Du niên của Phòng Chủ, cũng là Du niên của Trạch. Đương nhiên vì Sao tương ứng với Du Niên đó cũng là Sao của Phòng Chủ, và là Sao của Trạch luôn vậy.

Từ cung Cửa Cái , biến tới cung của Cửa Buồng, ta sẽ có Du niên & Sao của Cửa Buồng_ đây là một yếu tố phụ để luận đoán thêm về người ngủ ở phòng đó vậy.

Do Phức Trạch có nhiều ngăn, nên việc phân bố Du niên & Sao cho các ngăn cũng phức tạp hơn. Việc an Du Niên & Sao của các ngăn sau, trong Phức Trạch, phụ thuộc rất lớn vào việc An Du Niên cho ngăn đầu, nếu sai ngăn đầu coi như các ngăn sau sai hết. Vì sao thế? Bởi trong Phức Trạch, các Sao tịnh tiến vào trong theo chiều tương sanh của Ngũ Hành của các Sao.

Ví dụ như: Ngăn đầu ta có Lục Sát Thủy đi, thì ngăn kế sẽ là Mộc (vì Thuỷ sinh Mộc), tương ứng với Sao Tham Lang- Du niên Sanh Khí; ngăn kế nữa sẽ là hành Hỏa (vì Mộc sinh Hoả), tương ứng với Sao Liêm Trinh- Du niên Ngũ Quỹ… Do đó, việc An Du Niên cho ngăn đầu thật chính xác rất quan trọng!!!

Để An Du niên cho ngăn đầu trong Phức Trạch, ta cần xác định Cửa Cái thuộc CHÍNH MÔN hay là THIÊN MÔN.

Cửa Cái CHÍNH MÔN là cửa ngay chính giửa nhà vậy, trường hợp nhà xưa có ba gian, có ba bộ cửa, đương nhiên phải xét cửa nào là cửa chính thường được sử dụng nhất rồi. Khi ấy, không tiện thì ta có thể sử dụng cửa bên, nếu nó tạo ra hiệu quả tốt (Việc này NCD sẽ có chứng minh bằng ví dụ trong phần sau).

Như vậy ta dễ dàng hiểu ra cửa nằm một bên nhà là cửa THIÊN MÔN rồi.

Với mỗi vị trí CHÍNH hay THIÊN thì cách phối hợp Sao cũng khác.

Cửa này là cửa trùng với Hướng nhà. Với Cửa Chính Môn thì cách phối hợp là bình thường: Từ cung Cửa Chính Môn biến tới cung Sơn Chủ, ta được Du niên gì, ứng với Sao gì, thì đó là Du niên của Trạch, Du niên của Sơn Chủ, cũng là Du niên của ngăn đầu_ Sao tương ứng với nó cũng được An cho ngăn đầu.

Ví dụ: Nhà Tọa Càn, Hướng Tốn, có cửa Chính Môn, có 4 ngăn.

Trước tiên, ta thấy cửa Chính Môn thì trùng với Hướng, vậy đó là Cửa Tốn. Từ Cửa Tốn biến tới Sơn Chủ Càn (Sơn Chủ chính là Tọa, là mặt hậu của nhà), ta được Du niên Họa Hại & Sao ứng với nó là Sao Lộc Tồn thuộc Thổ. Ta có ngăn đầu là Lộc Tồn_ Họa Hại Thổ. Ở ngăn kế sẽ là Vũ Khúc_ Diên Niên Kim. Ngăn kế nữa là Văn Khúc_ Lục Sát Thủy. Và ngăn cuối là Tham Lang_ Sanh Khí Mộc.

Nhà đó sẽ được gọi là nhà HỌA HẠI TRẠCH.

Trước tiên ta hãy dùng La Bàn xác định cung của Cửa Thiên Môn này đã. Kế đến từ cung của Cửa Thiên Môn biến tới Hướng nhà, đó chính là Du niên của ngăn đầu vậy.

Muốn xác định Du niên của Trạch, Du niên của Sơn Chủ thì ta lấy từ cung của Cửa Thiên Môn biến tới cung Sơn Chủ, đó là Du niên của Sơn Chủ, và Du niên của Trạch vậy.

Thí dụ: Nhà Tọa Ly, Hướng Khảm, cửa bên trái thuộc cung Càn, nhà có 3 ngăn.

Trước tiên ta lấy từ cung Cửa biến tới Hướng: Càn với Khảm phối nhau cho ra Du niên Lục Sát Thủy, ứng với Sao Văn Khúc. Ta An Sao này và Du niên này vào ngăn đầu để tính tiếp các ngăn sau. Ngăn đầu ghi vào đó là Văn Khúc_ Lục Sát Thủy. Ngăn giửa ghi vào Tham Lang_ Sanh Khí Mộc. Ngăn cuối ghi vào Liêm Trinh_ Ngũ Quỹ Hỏa.

Kế đến ta tìm Du niên cho Trạch & Du niên cho Sơn Chủ. Từ cung của Cửa Thiên Môn biến tới cung của Sơn Chủ, ta có Càn phối với Ly là Tuyệt Mạng, đó là Du niên của Sơn Chủ lẫn Du niên của Trạch vậy. Ta gọi nhà đó là TUYỆT MẠNG TRẠCH.

II/. CÁCH PHÂN BỐ SAO Ở ĐỘNG TRẠCH (từ 2 đến 5 ngăn):

Cách mà NCD di chuyển Sao như trên là cách di chuyển Sao của loại Động Trạch này đó. Đọc đến đây ắt các anh chị, các bạn sẽ có thắc mắc: Sao thì có đến 8 Sao, trong đó có 2 sao Kim, 2 sao Thổ, 2 sao Mộc, vậy gặp ngăn phải phân Sao Mộc hay sao Kim thì dùng Sao nào?

Xin thưa rằng ở Động Trạch chỉ dùng 5 Sao làm chính, đó là: Tham Lang, Văn Khúc, Vũ Khúc, Liêm Trinh & Cự Môn. Trừ trường hợp các Du niên phối nhau ra các sao Lộc Tồn, Phá Quân & Phụ Bật thì mới an Sao đó vào ngăn đầu thôi. Ngoài ra, các trường hợp Du niên ngăn đầu không phải là Họa Hại, Tuyệt Mạng, Phục Vì thì chỉ dùng 5 Sao kia.

Trong trường hợp An Sao cho Biến Trạch, thì mới dùng thêm bốn sao phụ ngũ hành kia. Tuy gọi là bốn sao nhưng thực tế chỉ có…3 rưởi thôi, vì Sao Phụ Bật chỉ có tác dụng phân nửa thôi, lực nó yếu hơn hẳn các sao khác.

Như vậy ngoại trừ Thuỷ và Hoả chỉ có một Sao, còn lại các nhóm ngũ hành kia đều có một đôi sao. Trong trường hợp gặp các nhóm ngũ hành có đôi sao thì dùng liên tiếp cả đôi sao cho 2 ngăn liền nhau.

Tuy nói vậy, nhưng không phải nhà BIẾN TRẠCH nào cũng dùng hết các đôi sao, còn tùy thuộc vào số ngăn của nó:

_ Biến Trạch có 6 ngăn: Chỉ dùng đôi sao đầu tiên mà nó gặp.

_ Biến Trạch có 7 ngăn: Chỉ dùng hai đôi sao đầu mà nó gặp.

_ Biến Trạch có 8-10 ngăn mới dùng đú cả ba đôi sao.

Đến đây lại nảy sinh vấn đề: Thế gặp đôi sao thì an sao nào trước? Đây là mấu chốt của vấn đề, nếu quý vị nào đọc đến đây mà nêu ra câu hỏi ấy liền thì chắc chắn vị đó rất ham mê tìm tòi về Phong Thuỷ vậy. Ngoại trừ trường hợp ngăn đầu & ngăn kế có đôi sao, vì khi đó đã có sao ở ngăn đầu tính theo Du niên biến ra. Các trường hợp ở sau thì sự an bố các đôi sao theo luật nhất định :

_ Gặp đôi sao thuộc Mộc thì PHỤ BẬT trước, THAM LANG sau.

_ Gặp đôi sao thuộc Kim thì VŨ KHÚC trước, PHÁ QUÂN sau.

_ Gặp đôi sao thuộc Thổ thì: LỘC TỒN trước, CỰ MÔN sau.

Vẫn áp dụng như phần Biến Trạch, và cứ thế xoay cho đến ngăn chót.

Như ta thấy, mỗi ngăn có một sao trấn giữ, Du niên chỉ là cái để ta tìm ra Sao ở các ngăn thôi, thật ra, chính các Sao đó mới chi phối sự Cát Hung của các ngăn đó vậy.

Sau khi an Sao cho từng ngăn rồi, người ta mới tìm 1 Sao làm Sao Chúa. Vì sao phải cần 1 Sao Chúa? Do trong Phức trạch có nhiều ngăn, nên cần chọn một ngăn chánh có Sao tốt để phát huy hiệu lực vượt trội của sự tốt đẹp, hầu trấn áp các ngăn xấu hại có Hung Tinh, nhất là với các căn nhà có tên Ác hại_ tức các Hung Du niên Trạch.

Thường khi chọn Ngăn Chánh, người ta ít chọn các ngăn đầu lắm, vì nó xa Sơn Chủ. Trong Phong Thuỷ, khi không xét đến LONG 9tức Long Mạch), thì Sơn Chủ biểu tượng cho Trạch Chủ vậy, nên người ta luôn tìm cách củng cố nó, bồi bổ nó, hỗ trợ nó. Chính vì thế, khi chọn Ngăn Chánh người ta mới thường chọn ngăn gần với Sơn Chủ, hoặc trực ngộ Sơn Chủ. Một căn cao lớn hơn, rộng rãi hơn, sạch sẽ hơn các ngăn khác mới đáng gọi là Ngăn Chánh. Nói một cách dễ hiễu nhất, cứ căn cứ vào Thể Tích của Ngăn, thể tích ngăn nào lớn nhất thì đó là Ngăn Chánh vậy. Đây chính là một điều mà một số thầy Phong Thuỷ trong trường phái này lầm lẫn. Cứ nhìn thấy Diện Tích lớn hơn đã vội vàng cho đấy là Ngăn Chánh thì tai hại vô cùng!!

Ví dụ: Một ngăn ngang 3m, dài 4m, cao 6m (vì không vướng gác lửng bên trên, lại không có la-phông); một ngăn ngang 4m, dài 4m , cao 3m.

Nếu chỉ nhìn sơ theo diện tích tất phán đoán rằng ngăn sau lớn hơn ngăn trước. Ta thử làm phép tính nhân xem: 3m x 4m x 6m= 72 m3

Một trời một vực phải không quý vị? Nếu như Ngăn chọn lầm đó mà do một Hung Tinh trấn ở đó thì thử hỏi tai hại cỡ nào? Trong Phong Thuỷ, chỉ cần một tính toán sai lầm của người thầy, thì có thể tai họa lập tức giáng xuống đầu gia chủ liền tức thời. Do đó, nếu muốn chọn Ngăn Chánh với Sao tốt hỗ trợ cho nhà, thì xin hãy cẩn thận xét cả chiều cao của ngăn đó!!!

Ngăn Chánh thì Sao của nó được gọi là SAO CHÚA.

Cùng với Du Niên Trạch, Sao Chúa góp phần chi phối sự lành dữ, cát hung của những người sống ở nhà đó. Do vậy, phải chọn Sao Chúa là một Cát Tinh mới đem lại lợi ích cho những người sống ở nhà đó.

Và tốt hơn nữa, Cát Tinh đó phải hữu lực như: Đắc Vị, Đăng Điện hay tốt bậc nhất là NHẬP MIẾU.

_ Cát Tinh Đắc Vị là chỉ Sao có Ngũ Hành Tương Sanh với Ngũ Hành của cung.

_ Cát Tinh Đăng Điện là chỉ Sao có Ngũ Hành trùng với Ngũ Hành của cung.

Ví dụ như: hai cung Cấn- Đoài biến ra Vũ Khúc- Diên Niên Kim. Vậy thì so với cung Cấn thì Sao Vũ Khúc Đắc Vị, nhưng so với cung Đoài thì Sao Vũ Khúc là Đăng Điện.

_ NHẬP MIẾU là chỉ trường hợp Ngăn Chánh là ngăn cuối cùng, tức Sao Chúa trực ngộ Sơn Chủ, giáp với Sơn Chủ.

Khi một căn nhà đã có Du Niên Trạch là một Cát Du Niên, lại thêm Sao Chúa là một Cát Tinh hữu lực thì khác nào như gấm thêu hoa, như Rồng mây gặp hội, nhà càng hưng thịnh lâu bền.

Khi một căn nhà có Du Niên Trạch là một Hung Du Niên, ta càng cần chọn một Sao Chúa là Cát Tinh hữu lực, nhắm áp chế bớt Hung Tinh. Trường hợp này, các nhà Phong Thuỷ gọi là YỂM SÁT TRẠCH.

Khi gặp trường hợp này, thì tác dụng tốt của Sao Chúa sẽ bị giảm đi 1/3 đến 1/2 hiệu lực tốt đẹp vốn có của nó. Thời gian còn lại, hiệu lực của nó rất yếu, khó chống ngăn nếu có thêm Hung Tinh nào nữa.

TUYỆT ĐỐI KỴ lấy Sao Chúa là môt Hung Tinh, nếu Hung Tinh này Đắc Vị, Đăng Điện hay Nhập miếu nữa thì càng thập phần nguy khốn cho gia chủ. Ví như một kẻ hôn quân bạo chúa mà lên nắm quyền sinh sát vậy, tha hồ mà hành hung tác ác, gieo tai rắc họa.

Bất đắc dĩ lắm người ta mới dùng Cát Tinh Thất Vị (là chỉ Sao tương khắc với Cung) làm Sao Chúa. Vì một Cát Tinh Thất Vị có khác gì cá trên cạn, cọp xuống đồng bằng đâu, chẳng làm được gì.

Ở đây, ta chỉ xét các Cung trọng (tức là các Cung: Cửa Cái, Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ), không bàn đến các Cung Khinh (tức là các Cung: Cửa ngõ, Cửa Bếp, Cửa Buồng). Trong ba Cung Trọng này lại chia ra làm hai: Cung bên ngoài và Cung bên trong.

_ Cung bên ngoài (ngoại) là Cửa Cái.

_ Cung bên trong (nội) là Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ

Điều đầu tiên mà NCD muốn nói đến là một điều… xưa như Trái Đất :

Vâng, điều này NCD luôn nhắc mãi. Đây là LÝ của Dịch, cũng là LÝ của Phong Thuỷ_ dù theo bất kỳ trường phái nào thì cũng không thể gạt bỏ ý này, xin hãy nhớ!!!

Vậy thì khi nào sẽ rơi vào trường hợp này? Ấy là khi hai Cung Thuần Âm hay Thuần Dương. Khi ấy, dù cho có giao phối nhau cho ra Cát Du Niên, thì sự tốt đẹp ấy cũng không được bền lâu. Cũng như hai vợ chồng vậy thôi, người này nóng (Dương ) thì người kia phải nguội (Âm) chứ, nếu không chắc tan hoang nhà cửa quá. Việc phân cung Âm, Dương này ta có thể chủ động được, nên khi phối Cung, ta không chỉ xét Du Niên tốt, mà nên xem cả việc nó có đú Âm Dương chưa? Nếu thiếu thì ta tìm cách bổ khuyết vào.

Ví dụ 1: Nhà có cửa Tốn, Sơn Chủ Khảm. Phối với nhau được Sanh Khí Trạch, lại đủ Âm Dương tất phát dài lâu vậy.

Ví dụ 2: Nhà có Cửa Cái Khảm, Sơn Chủ Chấn. Phối với nhau được Thiên Y Trạch, nhưng đây là hai Cung Thuần Dương không sanh hóa, ở lâu nhà này sẽ dẫn tới Tuyệt tự. Ta có thể dùng Bếp Ly Âm để trung hòa lại, tất phát bền lâu vậy.

Các Cung Bát Quái phân Âm Dương, NCD đã có nói rồi, nay xin nhắc lại:

_ Cung Dương: Càn vi Lão Ông, Khảm vi Trung Nam, Cấn vi Thiếu Nam, Chấn vi Trưởng Nam

_ Cung Âm : Tốn vi Trưởng Nữ, Ly vi Trung Nữ, Khôn vi Lão Mẫu, Đoài vi Thiếu Nữ.

Ngoại sinh Nội, là ngoài sinh vào trong, như Cung Cửa Cái sinh Cung Bếp, Cung Cửa Cái sinh Cung Sơn Chủ (hay Phòng Chủ). Quan hệ này gọi là SINH NHẬP. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến sớm và nhanh, sự hanh thông trong gia đình thuận lợi hơn và dễ dàng hơn.

Ví dụ: Cửa Tốn, Sơn Chủ Ly. Được Thiên Y Trạch, lại có Cửa Tốn Mộc ở ngoài sinh vào trong cho Sơn Chủ Ly Hỏa nên phát rất nhanh. Tuy hai Cung này Thuần Âm, nhưng ta có thể dùng Bếp Khảm, hay Bếp Chấn trung hòa thì vẫn phát lâu bền được.

Nội sinh Ngoại, là ở trong sinh ra ngoài, như Cung Sơn Chủ (hay Cung Phòng Chủ) sinh ra Cung Cửa Cái, Cung Bếp sinh ra Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là SINH XUẤT. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến trễ và chậm vì nhịp độ thưa thớt, sự hanh thông trong gia đình do cần lao đưa đến hơn là duyên may.

Nội khắc Ngoại là ở trong khắc ở ngoài. Là Cung Sơn Chủ (Phòng Chủ) khắc Cung Cửa Cái, Cung Bếp khắc Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là KHẮC XUẤT. Trong trường hợp này, dù người trong nhà chống chế được ngoại cảnh, nhưng cuối cùng vẫn là sự hao tổn tinh thần và vật chất. Bán Hung.

Ngoại khắc Nội là ở ngoài khắc vào trong. Là Cung Cửa Cái khắc Cung Sơn Chủ (Phòng Chủ), Cung Cửa Cái khắc Cung Bếp. Quan hệ này gọi là KHẮC NHẬP. Rơi vào trường hợp này, nạn tai sẽ đến nhanh và bất ngờ, không biết đâu mà lường, và khó ứng phó, xoay trở, họa này do bên ngoài đưa đến.

_ Cung bị khắc là Càn: Người đàn ông lớn tuổi trong nhà, cha, ông bệnh đau, họa hoạn, vô năng, bất lực vì không thể thi thố được tài trí của mình.

_ Cung bị khắc là Đoài: Khốn khổ cho con gái út, cháu gái nhỏ.

_ Cung bị khắc là Khôn: Tổn hại cho Lão mẫu, người bà- mẹ- vợ trong nhà.

_ Cung bị khắc là Ly: Tổn hại cho con gái, cháu gái giửa, trung nữ.

_ Cung bị khắc là Tốn: Tổn hại cho con gái, cháu gái lớn, tức hạng nữ nhân trung tuổi trong nhà.

_ Cung bị khắc là Chấn: Tổn hại cho hàng nam nhân trọng tuổi như con trai trưởng, cháu trai trưởng trong nhà. Đặc biệt nếu chỗ đó là Từ Đường thì bất kể Trưởng Tử, Trưởng Tôn nội, ngoại đều bị khắc cả. Xin cẩn thận!!!

_ Cung bị khắc là Cấn: Tổn hại cho con trai nhỏ, con trai út, cháu trai nhỏ, thiếu nam (ở đây cũng có thể là… con trai dòng thứ).

_ Cung bị khắc là Khảm: Tổn hại cho con trai giửa, cháu trai giửa, trung nam trong nhà.

Sao được coi là yếu tố bên ngoài, vì nó còn phài do các Cung hỗ biến với nhau mà ra, như là các yếu tố ngoại lai vậy. Các Cung được xem là các yếu tố bên trong, bởi chúng là yếu tố có sẵn nằm trên địa bàn, như cái gốc rễ bên trong vậy.

_ Sao khắc Cung: Là ngoài khắc vào trong, được gọi là Ngoại chiến, ví như kẻ gây chiến từ bên ngoài đến vậy.

_ Cung khắc Sao: Là trong khắc ra ngoài, được gọi là Nội chiến, như người trong nhà ra ngoài sinh sự vậy.

Theo Dương Trạch Tam Yếu thì cho rằng: Mỗi trường hợp Nội Chiến sẽ giảm 50% tốt. Mỗi trường hợp Ngoại Chiến sẽ giảm 30% tốt.

Nội Chiến là Cung khắc Tinh, là trong khắc ra ngoài, ví như người trong thắng thế, tức Cung còn khả năng chế ngự Hung Tinh, khiến Hung Tinh cũng phải kiêng dè không dám hành hung nữa. Vậy thì phần xấu phải giảm đi nhiều hơn chứ, sao lại giảm đến 50% tốt?!

Còn Ngoại Chiến là Sao khắc Cung, là ngoài khắc vào trong, ví như người trong nhà yếu thế. Khi ấy Hung Tinh thắng thế, ví như tiểu nhân đắc chí, tha hồ tác yêu tác quái, hoành hành bá đạo. Thế thì phần Hung Hại của chúng càng nhiều hơn, sao chỉ giảm có 30% tốt?!

NCD xin giới thiệu qua các câu thiệu về từng trường hợp Sơn Chủ phối với Cửa Cái:

1/ SƠN CHỦ LÀ CẤN: Phối với Cửa Cái là:

_ Cấn: Trùng trùng, điệp điệp, thê tử thương

_ Chấn: Long phó Sơn trung, thiểu nhi lang.

_ Tốn: Phong sơn quả mẫu, đa phạp tự.

_ Ly: Hỏa Sơn phụ cương, bất điều kinh

_ Khôn: Địa Sơn thổ trùng, điền sản túc.

_ Đoài: Trạch Sơn tăng phúc, tiểu phòng vinh.

_ Càn: Thiên lâm Sơn thượng, gia phú quý.

_ Khảm: Thủy ngộ Sơn khắc, phạp tự tình.

_ Chấn: Thê tử tương khắc, Chấn mộc trùng.

_ Tốn: Phong Lôi công danh tợ hỏa sung.

_ Ly: Hỏa Lôi phát phúc, lương- hiền nữ.

_ Khôn: Nhân lâm Long vị: mẫu sản vong.

_ Đoài: Hổ nhập Long oa: lao cổ phế.

_ Càn: Quỷ nhập Lôi môn thương trưởng tử.

_ Khảm: Thủy Lôi phát phúc duy tuyệt tự.

_ Cấn: Lôi Sơn tương kiến: tiểu nhi ương.

_ Tốn: Nhi nữ gian nan thị trùng Phong

_ Ly: Hỏa Phong :đinh hi, gia hảo thiện.

_ Khôn: Nhân mai địa hộ: lão mẫu vong

_ Đoài: Hổ phùng hạn địa diệc âm thương.

_ Càn: Càn Tốn sản vong, tâm thối thống.

_ Khảm: Thủy Mộc vinh hoa, phát nữ tú!

_ Cấn: Sơn ngộ Phong môn quả mẫu tuyệt.

_ Chấn: Lôi Phong tương phối tốc phát phúc!

_ Ly: Hỏa diệm trùng trùng, nam nữ thương.

_ Khôn: Nhân môn kiến Hỏa đa quả phụ.

_ Đoài: Hổ Hỏa viêm chung: nữ thiếu vong.

_ Càn: Càn Ly: quả cư, sinh nhãn tật.

_ Khảm: Ký tế danh tỳ: Đại kiết xương!

_ Cấn: Sơn phùng Hỏa hủy cương phụ nữ.

_ Chấn: Lôi Hỏa quang minh: Phú quý xương!

_ Tốn: Phú quý, phạp tự: Phong Hỏa đương.

_ Càn: Thiên môn đáo địa: Vinh hoa chủ!

_ Khảm: Thủy Thổ hình nam_ tử trung niên.

_ Cấn: Sơn Địa điền sản đa tấn ích!

_ Chấn: Long nhập nhân môn, mẫu qui tiên.

_ Tốn: Phong đáo nhân môn, vong tiên mẫu.

_ Ly: Hỏa đáo nhân môn, tuyệt tự liên.

_ Khôn: Trùng địa, cô quả chưởng gia viên.

_ Đoài: Trạch Địa: Tài long, dị tính quyền.

_ Khôn: Địa Trạch tấn tài, tuyệt tự vương.

_ Đoài: Trạch trùng tiếu phụ chưởng quyền binh

_ Khảm: Trạch ngộ Thủy tiết, thiếu nữ vong.

_ Càn: Thiên Trạch tài vượng: Đa loạn dâm.

_ Cấn: Sơn Trạch nhơn vượng, gia phú quý.

_ Chấn: Long tranh, hổ đấu trưởng nam thương.

_ Tốn: Phong sinh hiện hổ thương trưởng phụ.

_ Ly: Ly Đoài quang hỏa: thiếu nữ thương.

_ Khảm: Thủy tiết Càn khí: Dâm, bại, tuyệt.

_ Cấn: Sơn khởi Thiên trung, tử vinh, hiền.

_ Chấn: Long phi Thiên thượng, vong ông lão

_ Ly: Ly Càn giao phối, nữ đoạt tiên.

_ Khôn: Địa khởi Thiên môn : Đa phú quý!

_ Đoài: Trạch Thiên quả nữ chưởng binh quyền

_ Càn: Càn Càn thuần Dương thương phụ nữ.

_ Cấn: Quỷ ngộ uông dương: Lạc thủy thương.

_ Chấn: Lôi Thủy: Phạp tự, đa hành thiện.

_ Càn: Thiên môn lạc Thủy: Xuất dâm cuồng.

_ Ly: Âm Dương chính phối: tam đa cục!

_ Tốn: Thủy Phong: ngũ tử đăng khoa tường!

_ Đoài: Bạch hổ đầu giang: Vong lục súc.

_ Khôn: Khôn Khảm trung nam mạng bất tồn.

_ Khảm: Thủy nhược trùng phùng thê tử ly.

Như ta đã biết, một căn nhà chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Sao Chúa và Du niên Trạch. Nay NCD xin giới thiệu 7 loại Du Niên Trạch? Sao chỉ có 7 loại? Vì Phục Vị Trạch thực tế gần như không có, và nó chỉ là một Du Niên trung bình không đáng để luận.

THỦY MỘC VINH HOA : PHÁT NỮ TÚ.

Nếu nhà có tác dụng, thì ngay khi còn nhỏ, Trưởng nữ đã mỹ mạo, thông minh; lớn lên thì đoan trang, hiền thục, hiếu để, đem lại danh giá cho gia đình.

Nếu cặp vợ chồng trẻ ở nhà này, người đàn bà không những tú lệ mà còn vượng phu ích tử, một tay đắc lực giúp chồng xây dựng và củng cố gia nghiệp.

Là nhà tốt đệ nhất của Đông Tứ Trạch, lại thêm ngoài Thủy sinh Mộc trong, phát đạt đến cấp kỳ, đắc cả phú lẫn quý, vừa giàu sang vừa danh giá, con hiếu cháu hiền, nam thanh nữ tú, của cải ngày một phát đạt. Nếu được nhà-ba-tốt (là ba cung Cửa Cái_ Bếp_ Sơn Chủ hay Phòng Chủ biến với nhau có đủ: THIÊN Y- SANH KHÍ- DIÊN NIÊN, gọi là nhà-ba-tốt), thì có thể duy trì cơ nghiệp đến 80 năm. Thời hiệu này còn có thể tăng hơn nữa, nếu gia chủ cũng có Quái Số thuộc nhóm Đông Tứ Trạch. Khi ấy nhà sẽ sản sinh ra bậc cái thế anh hùng, hiền lương đạo đức, giúp dân giúp nước, làm nên đại nghiệp.

NGŨ TỬ ĐĂNG KHOA THỊ PHONG THỦY.

Nhà có 5 con đỗ đạt, 5 là số tượng trưng cho sự tối đa của cách Sanh Khí Mộc này, không nhất thiết phải là 5. Nhà thuộc hai cách này, con cháu ngày càng đông đảo và tài trí hơn người. Khoa hoạn và quý hiển của nhà này nối tiếp nhiều thế hệ, vì nhà này không có dân giả tầm thường.

***Đặc biệt: Nếu nhà Cửa Tốn- Chủ Khảm- Hướng Ly, tức là nhà trổ cửa thiên môn bên trái (từ trong nhìn ra): Nên làm 2 ngăn với ngăn cuối làm Phòng Chúa, để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu (Tinh sanh Cung). Nếu làm 4 ngăn thì hãy để ngăn cuối cao rộng hơn hết, để Sao Tham Lang Mộc Đắc Vị Nhập Miếu (Cung sanh Tinh); TUYỆT ĐỐI KỴ trong trường hợp này là làm 3 ngăn với ngăn thứ ba lớn nhất, khi đó Sao Lục Sát Đăng Điện Nhập Miếu, gia cư tán bại, Danh giá vùi xuống bùn nhơ!!!

Do đó, được cuộc đất lợi thế chưa phải là đủ. Xin hãy cẩn thận!!!

ĐỊA SƠN THỔ TRÙNG: ĐIỀN SẢN TÚC.

Nhà này có nhiều ruộng vườn, gia súc; con hiếu cháu hiền, gia đạo hòa thuận, ai cũng thọ mạng nên nhà đông cả nam lẫn nữ.

Chỉ nên làm 3 ngăn với ngăn thứ ba làm Phòng Chúa, để có Sao Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu. Nếu làm 4 ngăn thì ngăn thứ tư lớn hơn để Sao Vũ Khúc Kim Đắc Vị Nhập Miếu.

SƠN ĐỊA ĐIỀN SẢN ĐA TẤN ÍCH.

Ngoài những đặc tính giống cách trên, nhà này còn có triệu Hỷ Lạc, vì tượng quẻ là Mẹ (Khôn) gặp Con (Cấn). Giàu sang, phú quý, thọ mạng.

LÔI HỎA QUANG MINH: PHÚ QUÝ XƯƠNG.

Ngoại sanh nội, lại đủ cả Âm Dương: Phu phụ tương thân, tương kính, con cái hiển đạt, gia đình vẻ vang, sự hưng phát của nhà này đầy khí thế đều nhờ Chấn và Sanh Khí Mộc lâm cung Ly, sanh cho Sơn Chủ Ly. Điền sản đã phong thịnh, người đã hiển đạt danh giá, trai tuấn tú, gái mỹ lệ, lại còn người nào cũng thuần hậu, hiền lương, thật là người xứng của.

HỎA LÔI PHÁT PHÚC: PHỤ NỮ LƯƠNG.

THIÊN TRẠCH TÀI VƯỢNG: ĐA DÂM LOẠN!

Cách cục này sinh tài lộc vượng, nhưng chỉ được lúc đầu thôi. Càng về sau càng chịu nhiều lời tai tiếng, không còn quý hiển nữa. Đoài vi Thiếu Nữ, ví như gái còn tơ măng mơn mởn, mà ưng giao phối cùng ông già_ Càn vi Lão Ông, dú có thật vì tình nghĩa cũng khó tránh dị nghị, ảnh hưởng đến thuận hợp gia đạo. Chồng già cỗi, vợ còn trẻ măng đầy xuân sắc sung mãn, tất chồng già say mê cô vợ trẻ rồi kiệt lực, ngày càng suy nhược, có thể chết bỏ lại vợ trẻ giữ gia sản. Đây chính là cách cục thường gặp của nhà này: Mẹ kế còn trẻ măng tranh chấp gia sản với con riêng chồng lớn tuổi hơn, hay vợ trẻ lang chạ ngoại tình_ vì chồng già không tương hợp về nhiều mặt vậy.

TRẠCH THIÊN QUẢ MẪU CHƯỞNG TÀI NGUYÊN.

Cũng tương tự như trên, lão ông sủng ái cô vợ trẻ…. dẫn đến lắm chuyện phiền toái vậy!

THIÊN MÔN ĐÁO ĐỊA: CHỦ VINH HOA.

Diên Niên kim gặp cung Khôn Đắc Vị, nên càng đem nhiều phước lợi cho nhà: Con hiếu cháu hiền, vừa giàu có vừa hiển đạt, có danh thơm tiếng tốt, vừa được ban thưởng phong tặng. Càn vi Lão Ông, Khôn vi Lão Mẫu, nên có thể nói đây là cách cục Âm Dương tương phối rất xứng, lại thêm là nhà Diên Niên, chủ về hạnh phúc lứa đôi, nên ở nhà này vợ chồng sẽ chung sống hài hòa, hạnh phúc, lại thêm thọ mạng. Nếu chủ nhà có Quái Số thuộc Tây Mạng thì…. trên cả tuyệt vời!

ĐỊA KHỞI THIÊN MÔN: PHÚ QUÝ XƯƠNG!

Càng thêm thuận lợi hơn cách trước, bởi bây giờ là Cửa ngoài sinh vào Sơn trong, nên sự phát đạt càng mau chóng hơn nữa, dễ dàng hơn nữa. Sơn Chủ Càn kim gặp Vũ Khúc Kim thật tương hòa, tương mỹ. Có hai điều lợi thế trong cách này:

_ Cửa Cái sinh Sơn Chủ giúp phát mau.

_ Diên niên Kim tỷ hòa Sơn Chủ Kim tạo thành nhà Vượng Cách, cực kỳ tốt.

Nếu gia chủ là Tây mạng nữa thì như gấm thêu hoa, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Chính vì vậy, trong cách này mới tượng quẻ là “Xương”.

SƠN TRẠCH NHƠN VƯỢNG: GIA PHÚ QUÝ .

Đây cũng là một trong những nhà thuộc Đệ Nhất Cách của Tây Tứ Trạch. Ở cách này, những người trẻ tuổi sớm thành đạt. Sự thuận lợi cho nhà này tương tự cách thứ II, vì Cửa sinh Chủ, Diên Niên Kim tỷ hòa với Sơn Chủ Kim nên Đăng Điện Vượng Cách. Đây cũng là sự giao phối tương xứng giửa Âm Dương, Cấn vi Thiếu Nam, Đoài vi Thiếu Nữ, rất xứng đôi phải lứa. Và kiến trúc này dễ gặp hơn cách Càn Khôn ở trên. Nhà này chẳng những phát mau mà còn khiến gia đạo thuận hòa, vợ chồng mãn ý.

TRẠCH SƠN TĂNG PHÚC: TIỂU PHÒNG VINH.

Nhà này Sơn Chủ sinh ra Cửa nên tuy phát nhưng gia chủ ắt hẳn cũng phải cực nhọc, lo toan không ít, nhất là với những người “tiểu phòng”. Hai chữ này ở đây ám chỉ thứ thê, thiếp trẻ, hay nói nôm na là…. vợ nhỏ, cùng con cái của những người này. Nói chung về đặc tính tốt thì cũng tương tự ba loại trên, duy chỉ cực nhọc hơn thôi, và người nhà này kém chững chạc hơn so với hai cách đầu, và kém hiển hách hơn so với cách III

LÔI PHONG TƯƠNG PHỐI: TỐC PHÁT PHÚC!

Cả hai đều cùng hàng trưởng, đủ cả Âm dương, cũng như vợ chồng chính phối, đồng đẳng xứng đôi. Chấn Tốn cùng là Mộc nên Mộc khí cường thịnh, thành ra một loại “Danh Mộc, Thần Mộc”. Nay gặp Vũ khúc Kim biến chế tất Mộc thành vật hữu dụng, quý giá. Ví như Mạng Tòng Bá Mộc sanh mùa xuân, trong ngày giờ có Kim vậy.

Cho nên nhà này từ một bậc thường dân một bước nhảy vọt lên công danh hiển hách bất ngờ, đang bần cùng khốn khổ, chỉ trong sớm tối trở nên Đại Phú Đại Quý.

Vì chỉ có một bước mà đường mây thênh thang rộng mở, nên cần xử sự hợp đạo và cận nhân tình. Ngoài Chấn, trong Tốn, tượng quẽ là Lôi Phong Hằng. Thoán từ của kinh Dịch có nói: Hằng; hanh, vô cữu, lợi trinh, lợi hữu du vãng. Như vậy thì hàm ý sự việc chậm một tý thì lâu dài, không phải âu lo; giữ theo chính đạo thì có lợi, tiến hành việc gì cũng thuận lợi. HẰNG tự nó là mang ý lâu dài, bền bĩ, chậm rãi rồi, nên trong trường hợp này cần cư xử cho hợp đạo mới vững bền.

PHONG LÔI: CÔNG DANH NHƯ HỎA THÔI.

Gió ở trên, Sấm ở dưới, gió thổi mạnh thì Sấm càng vang xa. Cách này và cách trên còn gọi chung là “Bình Địa Nhất Thanh Lôi”. Công danh thịnh đạt như trở bàn tay. Cách này giống cách trên ở chỗ từ bạch đinh thoáng chốc đã thành đại phú ông. Nếu dám chấp nhận nguy hiểm làm lợi ích cho người khác thì càng vang danh hơn. Chớ hãnh tiến quá mà mang họa vào thân, phải biết tiến thoái, biết nghĩ đến những người xung quanh mình (ý quẻ Phong Lôi Ích: Ích chi đạo, dữ thời giai hành). Phải cố hành thiện tích đức thì mới giử được cái phú quý lâu bền được (kiến thiện tác thiện, hữu quá tác cải), có sai thì phải biết sửa sai, chớ ngông ngênh làm càn mà mang tiếng “tiểu nhân đắc chí”.

Cần xử sự khéo léo, tiến thoái hợp lẽ là ý chung cho hai trường hợp này. Xin chớ vì đắc ý nhất thời mà buông lung sẽ khó mà giữ được lâu dài.

THỦY HỎA KÝ TẾ: ĐẠI CÁT XƯƠNG!

Trung nam sánh duyên Trung nữ, vợ chồng chính phối, đồng đẳng. Gia đình hài hòa, hạnh phúc, người đông, của nhiều, giàu có lại danh vọng.

Đây là Quẻ Thủy Hỏa Ký tế. Ký tế là đã xong, là được hanh thông rồi, nếu chịu làm hết các việc nhỏ còn lại và củng cố những việc đã thành tựu thì mới được lợi. Mới đầu được tốt nhưng cuối cùng sẽ loạn (sơ cát chung loạn).

ÂM DƯƠNG CHÍNH PHỐI: PHÚ QUÝ CỤC .

Nhà này đắc cả Tam Đa: Phúc- Lộc- Thọ, gia tư phong thịnh, giàu sang, quý hiển, trường thọ.

Hai cách sau này là nhà nằm trên trục Nam Bắc, nên nhà ở chịu ảnh hưởng của hai cực trên Trái đất, ở lâu tất sinh bịnh đau mắt, hại tim , bụng đau nhức, khắc vợ, nhà khắc khẩu.

Muốn phá giải nên đặt bếp Chấn hoặc Tốn, lấy Mộc làm trung gian hòa giải nước và lửa. Ngoài ra, sự hóa giải này còn hai điều lợi:

_ Khảm sinh Chấn: Tạo ra sự hanh thông, thịnh cát.

THIÊN LÂM SƠN THƯỢNG: GIA PHÚ QUÝ

Giàu tiền bạc, của cải, ruộng đất. Sang trọng, có chức vị lớn trong xã hội, người đời trọng vọng. Thiên Y với Sao Cự Môn là Phúc Tinh, rất hợp với Tây Tứ Trạch. Sao Cự Môn nếu Đăng Điện sẽ đem lại thịnh vượng ở mức độ sâu dầy, con cháu đông, điền sản nhiều, danh giá lớn, con hiếu cháu hiền. Tuy nhiên, do hai cung Thuần dương nên sự tốt đẹp đó chỉ được khoảng 20-30 năm, sau đó nhà này sẽ khiến khắc chế vợ con, ở lâu sẽ tuyệt tự.

SƠN KHỞI THIÊN TRUNG: TỬ QUÝ HIỂN.

THỦY LÔI PHÁT PHÚC, CỮU: TUYỆT TỰ

Trong vài ba mươi năm đầu, nhà này con cái đông đảo, công danh hiển đạt, nhà đầy hỷ lạc vì nhiều người hiền lương, trung nghĩa. Ở lâu hơn nữa, điền tài suy giảm, hậu tự khó khăn bởi cách Thuần Dương.

LÔI THỦY: PHẠP TỰ, ĐA HÀNH THIỆN.

Dù Cửa và Sơn Chủ tương sinh, nhưng nội sinh ngoại, nên người trong nhà cực nhọc hơn, nếp sinh hoạt rộn ràng hơn cách trên. Chỉ giúp phát đạt, đông đảo lúc đầu. Về sau, khắc chế vợ con, gia cảnh lụn bại, bởi Thuần dương.

ĐỊA TRẠCH: TẤN TÀI, TUYỆT HẬU TỰ

Thiên Y thổ gặp Đoài kim Đắc vị, lại là Ngoại sinh Nội, nên ruộng vườn, tài sản hưng phát, người nhà nhơn đức. Về sau, nhà Âm thịnh tất Dương suy, bất lợi cho đàn ông, con trai. Âm khí nặng nề sẽ tổn hại cho sự thanh khiết. Mẹ già góa chìu chuộng con rễ quá mức (vì yêu thương con gái: do Khôn sinh Đoài) khiến gia pháp chẳng nghiêm, lần lần kẻ khác họ kế tự.

TRẠCH ĐỊA: TÀI LONG, DỊ TÁNH CƯ.

Dị tánh là người khác họ, ở đây ám chỉ người dưng rặt, tỷ như chỉ có bà con với dâu hay rễ thôi. Những người này đến ở chung nhà, ban đầu chỉ là tạm thời, dần dà chiếm được lòng tin yêu hoặc do sự cần thiết của gia đình, họ trở thành những nhân vật quan trọng, cuối cùng có thể đi tới chỗ chiếm đoạt cơ nghiệp. Cách này tiền bạc, ruộng vườn dồi dào, gia đạo hoan hỷ, vì cả nhà đều phước thiện. Hiềm nổi nhà này Âm thịnh Dương suy, nam nhân lần hồi thưa thớt, nữ quản gia tư và quyền quản lý có thể về tay người khác.

PHÚ QUÝ, PHẠP TỰ: PHONG HỎA ĐƯƠNG

HỎA PHONG: ĐINH HI, GIA HẢO THIỆN.

Nhà này đắc cả Phú lẫn Quý, nhà toàn hiền lương, trung hậu. Nữ nhân nắm quyền, nam nhân ít ỏi, có thể phải nhận con nuôi kế tự cũng vì cách Thuần Âm.

***LƯU Ý: Nhà Thiên Y không bằng nhà có Sao Chúa là Cự Môn Đắc vị hay Cự Môn Đăng Điện Nhập Miếu, vì nó đắc cách nên có thể phá giải cô Âm- độc Dương mà vẫn đạt được sự tốt đẹp của Cự Môn.

Nhà Thiên Y tất cả đều vướng cách Thuần Âm hay Thuần Dương, nên dùng Bếp để có đủ Âm Dương, thì mới ở lâu dài được.

QUỶ NHẬP LÔI MÔN: THƯƠNG TRƯỞNG TỬ.

Tai họa ở cách này đến cấp kỳ, đủ cả: khẩu thiệt, quan phi, đạo tặc, tù tội, cha con bất hòa, gia súc nuôi chết, hiện tượng quái dị phát sinh trong nhà; tim, bụng đau nhức, con cái chưa nên gia thất đã vong mạng, sinh kế trở ngại, điền sản tiêu tan.

LONG PHI THIÊN THƯỢNG: LÃO ÔNG ƯƠNG .

Tuy Sơn chủ khắc Cửa cái, nhưng Sao Liêm Trinh Hỏa khắc Sơn Chủ Càn Kim, khiến cho gia chủ lực bất tòng tâm. Từ việc gia chủ bất mãn, sinh ra sa đà vào trụy lạc trác táng. Ngoài ra, cách này còn dễ phát sinh án mạng, hoặc người trong nhà bị chết dữ (tai nạn, lửa đốt, nước sôi); khắc hại vợ con, phải cưới thê thiếp nhiều lần, lại thêm mục tật, sản nạn, ung nhọt độc hại.

NHÂN MAI ĐỊA HỘ: LÃO MẪU VONG.

Nói về Âm Dương thì: Dương là minh, thanh…; Âm là ám, trọc…

Nhà này đã Thuần Âm lại phạm Ngũ Quỷ, Âm Khí càng nặng nề, trong nhà nhiều điều lầm lỗi như: đam mê tửu sắc, dâm bôn, sanh sứa chuyện điên cuồng; con gái lớn khắc mẹ già; người thì dễ mắc bệnh tỳ vị hay bộ máy tiêu hóa yếu; dễ mắc vạ mồm miệng, quan tụng. Nam đoản mạng, nữ góa bụa. Lâu ngày dẫn đến tuyệt tự.

PHONG ĐÁO NHÂN MÔN: MẪU TIÊN VONG .

Cửa cái Tốn Mộc khắc vào trong Sơn Chủ Khôn Thổ, bao nhiêu tai họa từ ngoài đưa đến trút cả lên người mẹ lãnh hết, nên chết sớm. Nhà như có ma quỷ phá vậy, tai nạn đến bất kỳ. Trưởng nữ lộng hành, mẹ con (hay bà và cháu gái) tương khắc lẫn nhau, nhiều điều lo buồn đưa đến, phát sinh bệnh tỳ vị, da vàng, phù thũng. Người nhà yểu vong. Phát sinh chuyện phóng đãng, trụy lạc, đạo tặc, làm tán gia bại sản. Nhà này không nên ở lâu, sẽ tuyệt tự ở vài thế hệ sau.

QUỶ NGỘ UÔNG DƯƠNG: LẠC THỦY THƯƠNG

Lạc thủy thương ở đây ám chỉ những vụ: Gieo đầu xuống sông, xuống giếng tự vẫn, hay bị hỏa nạn thủy tai.

Trong nhà, anh em tương chiến tưng bừng, con cái bất hiếu, ngỗ nghịch. Là nhà khắc hại vợ con, tai vạ đến ào ào không kịp chống đỡ, gia sản tiêu tan .

THỦY NGỘ SƠN KHẮC: TU PHẠP TỰ .

Là Sơn Chủ Cấn Thổ khắc ra ngoài Cửa Cái Khảm Thủy, nội khắc ngoại, gia chủ còn gắng gượng chống đỡ được, nhưng cuối cùng cũng lụn bại, gia nghiệp tiêu tan, đặc biệt nhà này rất khó nuôi con nít, nên khó giữ hương lửa.

Còn nhỏ thì bị Sát chụp; lớn lên nếu không tự thắt cổ, nhảy sông, uống thuốc rày thì cũng tương tranh, huynh đệ thủ túc tương tàn, gia đạo cực kỳ hỗn loạn.

***LƯU Ý: Hai cách 5 & 6 này Nam Nhân tranh chiến rất ác liệt.

HỔ HỎA VIÊM CHUNG: NỮ THIẾU VONG

Nhà này trong khắc ra ngoài. Ly mãi mê đốt Đoài, khắc Đoài, rốt cuộc lại thì Ly cũng tắt. Nhà này nữ nhân lộng hành, đoạt quyền chồng, gây điều tệ hại. Có người bệnh phổi, ho lao. Không khí trong nhà này luôn ngột ngạt, căng thẳng, nặng nề. Và nhất là bùng ra những vụ Hung Tử, Bạo Tử bất chợt, dẫn đến gia nghiệp tiêu tan.

LY ĐOÀI HỎA QUANG: THƯƠNG THIẾU NỮ .

*** LƯU Ý: Hai cách 7 & 8 này Nữ Nhân giao chiến, lộng quyền.

TRẠCH NGỘ THỦY TIẾT: THIẾU NỮ VONG.

Tai họa xảy đến cho cả chủ nhà và con gái út (con gái- cháu gái nhỏ). Nhà này khiến tán tài, nhiều tai biến xảy đến, dẫn tới phá tan gia nghiệp, hàng phụ nữ trẻ, thiếu phụ phải chết non, chủ nhà lao tổn quá độ sinh bệnh ở phổi và những cơ quan liên hệ.

BẠCH HỔ ĐẦU GIANG: LỤC SÚC THƯƠNG.

Cửa Đoài, Sơn Chủ Khảm, là Đông Tây giao chiến, Kim bị Thủy làm tiết khí (vì Kim phải sinh Thủy mà), nên Đoài chịu thua, ví như thiếu nữ sao bì với sức trai tráng trung niên được?

Lại thêm Đoài sinh xuất bị hao tổn tinh khí, nên nhà này tổn thương lục súc, ăn mòn phúc lộc, khuyết gia nghiệp rồi lụn bại hẳn luôn.

NHÂN LÂM LONG VỊ: MẪU SẢN VONG.

Nhà này có thể xảy ra một trong điều sau:

_ Người mẹ sinh con trai thì bị sản nạn chết.

_ Mẹ con bất hòa trầm trọng.

_ Trước tổn hao tiền của, sau thoái bại nhân khẩu.

_ Giữ được tiền của thì nhân số giảm dần, nếu giữ được nhân số thì tiền của suy hao, tán gia bại sản

LONG NHẬP NHÂN MÔN: THƯƠNG LÃO MẪU

Nhà này con trai trưởng khắc mẹ già (Chấn vi trưởng nam, Khôn vi lão mẫu, Chấn mộc khắc Khôn thổ), làm mẹ già khốn khổ, sinh bệnh bao tử và bệnh về bộ máy tiêu hóa. Sự xung đột lên đến cao độ, có thể tới mức mẹ con không còn nhìn mặt nhau, và lão mẫu phải thoát ra khỏi nhà mới mong tồn tại. Nhà Họa Hại là Sao Lộc Tồn Thổ, nó tỷ hòa với Sơn Chủ, nên lúc đầu cũng rộn rịp, đông người ở, tiền bạc dư dả, về sau phải mất một trong hai.

PHONG THIÊN ĐÔNG THỐNG: SÁT TRƯỞNG PHU

Nhà này nội khắc ngoại, người trong nhà mạnh thế, kẻ bên ngoài có ghét cũng chẳng làm gì được. Trong nội bộ gia đình thì hoặc chồng khắc vợ, hoặc cha khắc con gái. Khắc nhẹ thì ngoài mặt chẳng ưa, hoặc nặng hơn thì chửi rủa, đánh đập. Có khi chỉ khắc trong thần khí, làm nữ này bịnh đau triền miên rồi yểu mạng.

Cách Họa Hại này thuận với Sơn Chủ (thổ và kim), vì vậy về ý thức hệ: Chuyện Họa Hại nhiều khi chỉ được sửa đổi ngoài mặt, nhưng kỳ thực Hung hại như được Sơn Chủ (người đàn ông lớn tuổi trong nhà, người chồng, người cha, người trụ cột trong nhà đó) bao dung, che lấp. Nên thỉnh thoảng lại có một hình thái tai họa nổi lên (như say rượu về đánh vợ con, đập phá đồ đạc..)

Mặt khác, Cửa Tốn lại chống chế nổi Họa hại này. Theo thời gian, sức chịu đựng, sự nhẫn nhục được chấp nhận như là thứ định mạng. Hơn nữa, sự chịu đựng được giúp sức bằng những đợt tài lộc thỉnh thoảng đáo lai, vì Càn khắc Tốn mà cũng làm Tốn thành vật hữu dụng.

Nhà này chì thành đạt đoản kỳ.

CÀN TỐN SẢN VONG, TÂM THỐI THỐNG.

Đây là cách từ ngoài khắc vào trong, tai họa đến liên miên, thưa kiện rối ren, người bệnh, của tiêu tan, đàn bà bị chết vì sanh đẻ (sản nạn), yểu vong, trộm cướp; thường dễ bị các bệnh về tim, mông đau nhức.

***LƯU Ý: CÁCH SỬA CHỮA ở hai cách 5 & 6 này:

_ Gặp cách 5: Nên biến thành Tịnh Trạch với Cửa Tốn, Phòng Chủ Khảm chẳng hạn. Từ nhà Họa hại sẽ thành nhà Sanh Khí.

_ Gặp cách 6: Nên đổi từ Chính Môn Càn ra Hữu Thiên Môn Khảm (từ trong nhìn ra, cửa nằm bên tay phải gọi là Hữu thiên Môn). Thiết kế theo Động Trạch với hai ngăn, và ngăn hai là Ngăn Chính cao lớn nhất: Nhà từ Họa Hại sẽ biến ra nhà với Sao Tham Lang Mộc Đăng Điện Nhập Miếu.

SƠN PHÙNG HỎA HỦY: PHỤ NỮ CƯƠNG.

Cấn là Dương thổ đã là đất khô ráo, nay lại bị thêm lửa Ly thiêu đốt, nên càng cháy tiêu hết dưỡng chất, trở thành đất chết không dùng được nữa. Nữ nhân trong nhà rất cương cường, khắc nam nhân, khiến gia đạo bất hòa, gây điều điên đảo.

Họa Hại Thổ, Cấn cũng Thổ, cả 2 hòa hợp, Họa Hại xu mị Cấn như kiểu chồn nịnh gà, nên cuối cùng Cấn Thổ te tua mà Ly cũng rã rời.

HỎA SƠN PHỤ CƯƠNG: KINH BẤT ĐỀU.

Nhà này là cách phụ nữ tiếm quyền, gia phong trong nhà rối ren, bại hoại, mọi việc như loạn cả lên. Là cách ngoài khắc vào trong, mà Ly vi trung nữ, Cấn vi thiếu nam, là tượng đàn bà từ bên ngoài đến làm loạn, làm hại thiếu nam trong nhà (con tri út, cháu trai nhỏ, con trai vợ thứ). Du niên Họa Hại hợp cả Cấn lẫn Ly, cho nên cách Họa Hại này cực kỳ nguy hiểm, gia chủ phải phước đức thật sâu dầy mới mong tránh khỏi được.

Loại Họa Hại này, tai ách như cứ được bao che, dung túng bởi người trong cuộc, làm tác dụng của nó có tính dai dẳng. So với các loại Hung Du Niên khác thì cách Họa Hại thường rất khó chuyển đổi dù trên nhân thân hay trên nhà cửa.

*** LƯU Ý: Nhà này có thể đổi sang Cửa Hữu thiên Môn Khôn, nhà làm bốn ngăn với ngăn sau cùng cao- lớn nhất: Nhà từ Họa Hại sẽ thành nhà Sanh Khí Trạch, và có Sao Chúa Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu, từ xấu trở thành cực kỳ tốt vậy.

CÀN LY: QUẢ CƯ, SINH NHÃN TẬT.

Ly hỏa chỉ chuyên khắc đối vật, đối nhân, thế của nó là lửa cháy nên rất mạnh mẽ, hung hãn nên ở trong nhà này rơi vào cảnh cô độc là chuyện thường. Ly vi trung nữ, Càn vi lão ông, trung âm sung sức khắc lão dương yếu đuối: Những người lớn tuổi sức khoẻ suy nhược, bại vong, chẳng những chết mà còn chết lãng, chết vô duyên, chưa đáng chết mà chết nữa. Thường sinh các chứng bệnh nhức đầu, mờ mắt, cao huyết áp.

LY CÀN: LÃO CÔNG CHỦ BẤT CỮU.

Nhà này Âm thịnh Dương suy. Cửa Cái Ly Hỏa từ ngoài khắc vào trong Sơn Chủ Càn Kim, tai họa đến nhanh và bất kỳ, vô phương chống đỡ. Nhà này thường sinh ra chuyện tán tài, tuyệt tự, nữ nhân nắm quyền, các bệnh về mắt, ho hen do Hỏa thịnh, viêm khí quản- phổi, lao phổi.

SƠN NGỘ PHONG MÔN: QUẢ MẪU, TUYỆT.

Tốn Mộc khắc Cấn Thổ, Tốn vi trưởng nữ, Cấn vi thiếu nam. Là tượng em trai bị chị lớn khắc hại, sao chịu nổi.

Cấn vì bị Tốn khắc nên trẻ nhỏ khó nuôi, dễ bị yểu mạng. Âm trấn áp Dương khiến Dương tuyệt, còn lại Cô Âm Bất Sinh, nên dẫn đến tuyệt tự.

Thường thấy ở cách này là: Chị gái và anh rễ chiếm lĩnh cơ ngơi, tài sản cha mẹ để lại, em trai bị khống chế và cho ra rìa.

PHONG SƠN: QUẢ MẪU ĐA, PHẠP TỰ.

Là ngoài khắc vào trong, tai họa đến như “sét đánh không kịp bưng tai”, vừa nhanh vừa bất ngờ khó chống đỡ. Do Cấn thiếu nam bị khắc nên trẻ nhỏ càng khó nuôi hơn, nam nữ gì cũng tai ương. Trạch chủ sống cô độc, âm thầm chịu đựng một cách vô vọng. Nhà này khiến sinh ra nhiều đàn bà góa, con cái hiếm muộn .

Thường thấy ở cách này là: Em trai hưởng gia nghiệp, bất ngờ các bà chị đã xuất giá ở đâu cũng về tranh chấp, lại còn mắng chửi, đe dọa.

THỦY THỔ TƯƠNG KHẮC: TRUNG NAM TỬ.

Tuyệt mạng vì Khôn khắc Khảm làm trung nam phải chết. Nhưng cách cục này có thể chậm chết hoặc èo uột, sống mà như chết rồi, hoặc không chết bất ngờ vì:

_ Sao Phá Quân Kim sinh Khảm, như giúp thêm sức chịu đựng.

_ Sao Phá Quân Kim làm Khôn Thổ phải hao tán khí lực vì sinh nó. Đa Thủy thì Khôn Thổ không khắc nổi còn phải thọ nguy khốn nữa.

Cách này ác độc ở chỗ nó làm tiêu hao tất cả sinh lực của tất cả người trong nhà, suy yếu dần, như hành hạ từ từ cho chết lần chết mòn vậy.

KHÔN KHẢM: TRUNG NAM MẠNG BẤT TỒN.

Là người đàn bà lớn tuổi ở ngoài khắc trung nam ở trong, ngoại khắc nội, tai họa đến nhanh và khó lường trước. Nhà này gia chủ bất lực trước các sự tàn phá, xâm hại từ ngoài đưa đến, vô phương chống đỡ. Sự nghiệp lần hồi tiêu tan, sức khoẻ ngày một suy sụp; dễ mắc các chứng sỏi, sạn, khí huyết ngưng trệ. Đến khi áp lực bên ngoài hết thì cũng đủ cho tan hoang nhà cửa rồi vậy.

HỔ NHẬP LONG OA: LAO CỔ PHẾ.

Lao do thể chất mệt nhọc, tinh thần lo lắng buồn phiền vì phải liên tục chống đỡ những tai họa từ ngoài đưa đến. Cổ là một căn bệnh chứng đầy, cứ như căng trướng lên. Cửa Đoài Kim khắc Sơn Chủ Chấn Mộc, trưởng nam không chết cũng tàn mạt, suốt đời không làm nên được việc gì. Nhà này Âm khắc Dương, khắc chồng, hại con, bất hòa, lâu dần sinh tuyệt tự.

LONG TRANH HỔ ĐẤU: ƯU THƯƠNG TRƯỞNG.

Âm nhỏ bức hại Dương lớn, nhà này không còn tôn ti trật tự gì, hỗn loạn đến cùng cực. Nếu xét theo hướng nội ngoại, thì cách cục trên tuy Dương lớn bị bức bách, nhưng ít ra nó cũng còn ở ngôi Chủ vị (Chấn ở Sơn Chủ), còn trong cách này, Âm chiếm địa vị chủ, lại còn truy diệt Dương ở ngôi khách bên ngoài. Nói rộng ra, Âm đã lộng hành bức đuổi Dương khỏi ngôi vị gia chủ, mà còn muốn tận diệt bậc trưởng thượng.

Nếu xét theo mức độ nặng nhẹ: Cách Cấn + Tốn thì Dương mới bị Âm lấn bức, thì ở cách Chấn + Đoài, Dương bị tán bại đến tận xương, nhất là cách thứ tám này: Dương bị tàn diệt đến tột độ: Sinh ra nhiều vụ chết chồng, chết vợ, chết con trai trưởng, cháu trai trưởng khiến họa diệt tộc luôn treo lơ lững trên đầu. Đấy là mới nói đến nạn chết chóc, ngoài ra còn: Tranh chấp, bệnh đau, kiện thưa, tù tội, chém giết, phá sản…

Dương tượng trưng cho những gì sáng sủa, hanh thông, hưng thịnh, phát triển… Âm tượng cho sự tối ám, ngưng trệ, cùng khốn, lụn bại… Dương thắng thì những sự tốt lành sẽ đưa đến. Âm thắng thì tất cả các điều Hung hại sẽ nổi lên như nấm và cách cục Cửa Chấn- Sơn Chủ Đoài là cách Tuyệt Mạng Ác Nhất!!! Xin cẩn thận.

Cách Tuyệt Mạng Ác Độc thứ nhì chính là: Cửa Cái Ly- Sơn Chủ Càn.

Không cứ gì Càn phải là cụ già, nói chung là người đàn ông lớn tuổi trong nhà , bậc trưởng thượng hay rường cột chính, trụ cột của gia đình thì người đó là Càn vậy. Ly diệt Càn tức là diệt trực tiếp người lao động chính, tất nhà ấy sụp đổ thôi. Giống như cắt đứt rễ đuôi chuột, rễ Cái của cây rồi thì dù cây không chết, gió thổi cũng trốc gốc dễ dàng thôi.

_ Với cách CHẤN- ĐOÀI: Sửa từ cửa giửa thành cửa bên trái, cửa Cấn, Sơn Chủ Đoài, nhà từ Tuyệt Mạng thành nhà Diên Niên vậy. Có thể làm nhà năm ngăn, với ngăn chót làm Phòng Chúa, hoặc ít ra cũng bốn ngăn với ngăn chót làm Phòng Chúa.

_ Với cách LY- CÀN: Tốt nhất là sửa thành Đơn Trạch, bởi dù có sửa thành Thiên Môn, tìm Cát Tinh làm Sao Chúa, dùng thế Yểm Sát Trạch thì cũng không được tốt. Chi bằng sửa thành Đơn Trạch, ta có thể chủ động chọn Phòng Chủ tìm Du Niên tốt cho Trạch vậy.

THỦY TUYỆT CÀN KHÍ: DÂM, BẠI, TUYỆT.

Nhà này giúp thịnh đạt lúc đầu, khoảng chừng mười năm trở lại. Nhưng càng về sau càng phát sinh ra những chuyện thói hư tật xấu, rượu chè cờ bạc, trai gái đàng điếm, đủ thứ chuyện tệ hại. Lúc đầu thịnh đạt là nhờ hai cung tương sanh, nhưng nội sanh ngoại, trong sinh ra ngoài khiến gia chủ hao tổn tinh lực. Nhà này thường sinh các chứng bệnh về phế phổi, về ruột già.

THIÊN MÔN LẠC THỦY XUẤT DÂM CUỒNG.

Lục Sát ứng với Sao Văn Khúc thuộc Thủy, Sơn Chủ cũng thuộc Thủy, Hung Tinh càng được dịp thả sức tung hoành không ai cản trở. Văn Khúc tinh là Sao chủ về sự dâm dật, cộng thệm tượng của quẻ Khảm là hiểm, nên mức độ của nó càng trầm trọng thêm. Cách này nhờ từ ngoài sinh vào nên phát đạt lâu hơn cách trên một tý, nhưng sự dâm loạn, phóng đãng cũng nhiều hơn lên vậy. Cả hai cách đều đưa đến việc khắc hại vợ con, gia cơ tán bại vì những chuyện trụy lạc của cánh đàn ông trong nhà vậy.Thêm vào đó, cả 2 cách đều thuần Dương, ở lâu tất tuyệt tự là điều khó tránh khỏi.

LONG PHÓ SƠN TRUNG: THIỂU NHI LANG.

Rồng đến núi trong tư thế khách mạnh chủ yếu (Chấn mộc khắc Cấn thổ), từ ngoài khắc vào trong, tai họa đến mau và bất ngờ, ảnh hưởng nặng nhất là các thiếu nam, các con trai nhỏ, cháu trai nhỏ trong nhà. Là tượng anh lớn khắc em nhỏ, lại thêm thuần Dương, nhà này càng ở lâu càng tuyệt tự.

LÔI SƠN TƯƠNG KIẾN: TIỂU NHI ƯƠNG.

Nhờ nội khắc ngoại nên đỡ hơn cách trên. Tuy nhiên sự hình khắc dù từ trong ra ngoài hay từ ngoài vào trong, sau cùng đều mang lại kết quả xấu cả. Khi trẻ nhỏ bị khắc, thì người lớn cũng chẳng ích lợi gì. Cả bốn cách đều thuần Dương, Dương thịnh tất Âm suy, tất hại cho các nữ nhân trong nhà vậy, dù trong tượng quẻ không nói đến. Hai cách đầu thì nhà thịnh được lúc đầu, không khí trong nhà cũng rộn rịp lắm, nhưng là sự rộn rịp của việc ăn nhậu, dâm bôn trác táng, cờ bạc. Sự tranh chiến trong nhà ít gay go. Tất cả nam nhân trong nhà, từ già đến trẻ đều say mê “hái mận, bẻ đào” mà dẫn đến bại tuyệt. Hai cách sau có sự tranh chiến trong nhà, như huynh đệ tương tàn, anh em tranh giành đàn bà với nhau mà trở mặt. Cả bốn cách đều dẫn tới tán gia bại sản, không người thừa kế vậy.

Cách Trúng Số Trong Tử Vi

Tìm hiểu cách trúng số trong tử vi hay xem bói trúng số là như thế nào, những lá số tử vi trúng số, phong thủy trúng số và hạn trúng số trong tử vi.

Nhiều người vẫn thường tìm hiểu về các , đó có thể là một người chơi muốn tìm cơ hội để tăng vận may của mình hoặc đơn giản chỉ là muốn nghiên cứu về lá số tử vi của ai đó có cơ may trúng số hay không. Xem bói trúng số không phải là chuyện xa lạ, tuy nhiên không ai có thể khẳng định được đó là do “trùng hợp” hay sự “cao tay” của những thầy bà.

Theo lý giải của một số người am hiểu, thực chất có tồn tại việc lá số tử vi trúng số, nghĩa là dựa vào các cung, sao, vòng tuần hoàn trên lá số đó mà một người thầy nếu có đủ năng lực sẽ đọc ra được lá số tử vi của người này có khả năng trúng số hay gặp may mắn về tiền bạc hay không. Nếu bạn đang muốn tìm hiểu những cách trúng số trong tử vi để mong đổi vận cho mình thì điều này không hề đơn giản.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số thông tin cơ bản về việc người ta phán đoán một lá số tử vi trúng số là dựa trên những yếu tố nào. Hi vọng sẽ phần nào giải đáp được câu hỏi mà bạn đang tìm kiếm.

Cách trúng số trong tử vi được phán đoán dựa trên yếu tố nào?

Thực tế có nhiều cách xem lá số tử vi để nhận biết khả năng trúng số của người nào đó. Tùy theo kinh nghiệm, trình độ và khả năng phán đoán của người xem. Để xem về tài vận, may mắn tiền bạc của một người có thể dựa trên một số yếu tố như: Đại hại, tiểu hạn, nguyệt hạn, mệnh hạn, hóa lộc, lộc tồn… Trong đó:

– Đại hạn: Là thời gian 10 năm (một thập niên) tính dựa trên Cục và tuổi Âm, Dương.

– Tiểu hạn: Là thời gian 1 năm ghi theo vòng chu vi địa bàn, mỗi cung ghi một tên, trai ghi theo chiều thuận, gái ghi theo chiều nghịch.

– Nguyệt hạn: Là thời gian trong 1 tháng.

– Nhật Hạn: là thời gian trong ngày.

– Thời Hạn: là các giờ trong 1 ngày.

– Một cách giải thích vô cùng quan trọng chính là dựa theo vòng Lộc Tồn. Vòng Lộc Tồn là một trong 3 vòng sao (Thái Tú, Lộc Tồn và Trường Sinh) được an riêng trên các cung của các lá số.

+ Vòng Thái Tuế (Quan trọng số 1) : Cho biết về tư cách con người và sự thành đạt theo ý nguyện dễ dàng hay không. Ngoài ra còn chỉ rõ về thời gian (đại vận) thành đạt đắc cách trong đời.

+ Vòng Lộc Tồn (Quan trọng số 2 ): Chỉ về lộc trời – Tiền của và hạnh phúc. Được lộc trời thì an hưởng, không được thì có thể có nhiều tiền mà không hợp cách hoặc không được lâu bền.

+ Vòng Trường Sinh (Quan trọng số 3) : Chỉ về sức khỏe, ai cũng biết rằng sức khỏe là yếu tố quan trọng trong đời, có công danh, tiền bạc nhiều mà không sức khỏe cũng vứt đi.

Nhiều người xem bói trúng số để tìm kiếm vận may cho mình

– Nguyên tắc để có được ảnh hưởng thiên lộc của Lộc Tồn: Nguyên tắc chính là cung tuổi phải ở thế tam hợp với cung có Lộc tồn. Cụ thể:

+ Người tuổi Giáp: Với những người tuổi Giáp, Lộc tồn tại Dần, mà 3 cung ở thế tam hợp là Dần, Ngọ, Tuất, vì vậy sẽ có 3 tuổi là Giáp Dần, Giáp Ngọ và Giáp Tuất sẽ được ảnh hưởng tốt nhất của Lộc tồn (các tuổi Giáp khác không được hưởng).

+ Người tuổi Ất: : Với những người tuổi Ất, Lộc tồn tại Mão, mà 3 tuổi có cung ở thế tam hợp với Lộc Tồn ở Mão là Ất Hợi, Ất Mão, Ất Mùi nên được ảnh hưởng tốt nhất của Lộc tồn (các tuổi Ất khác không được hưởng).

+ Người tuổi Bính: Với tuổi Bính, Lộc tồn ở Tị, thế tam hợp là Tị – Dậu – Sửu, nhưng lại không có tuổi bào là Bính Tị, Bính Dậu hay Bính Sửu vì vậy không có tuổi Bính nào có cung tuổi ở thế tam hợp với cung Tị có lộc tồn. Do đó tất cả các tuổi Bính đều không có ảnh hưởng Lộc tồn.

+ Người tuổi Canh: Lộc tồn ở Thân, mà tam hợp là Thân – Tý – Thìn nên sẽ có 3 tuổi là Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn được ảnh hưởng tốt nhất của Lộc tồn.

+ Các tuổi Đinh, Mậu, Kỷ, Nhâm, Quý tương tự như người tuổi Bính, không có cung tuổi ở thế tam hợp với cung lộc tồn nên không có ảnh hưởng thiên lộc của lộc tồn.

Tuy nhiên với những tuổi không được ảnh hưởng của Lộc tồn thì không có nghĩa là những tuổi này đều không có phúc hay nghèo, bởi vì còn nhiều cách khác để phán đoán và thay đổi vận mệnh.

Kiểm chứng về cách xem trên đã có nhiều lá số có cung Lộc Tồn đóng tại mệnh và đã trúng số độc đắc. Tuy nhiên nhiều người trong số họ không giữ được tiền lâu, chỉ trong vòng một thời gian ngắn là tiền của tiêu tan, dù người đó có mang tiền đi làm ăn chân chính cũng vẫn mất. Bởi theo lý giải của một số người có kinh nghiệm, đó là những người được hưởng Lộc tồn ở thế nghịch cảnh, không phải như là thiên lộc (tức là từ làm ăn chân chính, tự sức mà tiến lên, gây dựng sự nghiệp và tiền tài) nên không được bền.